Bàn sơ sơ về giới hạn

Trong lý thuyết về Tính Dục (psychosexual) của Sigmund Freud. Bố của phân tâm học có một ý mà hiểu rộng ra nó giống thế này

“Kỹ năng của con người hình thành từ các kinh nghiệm và thông tin thu thập được trong quá khứ. Xử lý các thông tin đó là cách để hình thành kỹ năng. “

Nhưng mà cũng phân tâm học. Mr Lacan, đệ của Freud chỉ ra rằng

“Một người khi đạt tới ranh giới của kỹ năng sẽ rơi vào cảm giác giống như tuyệt vọng. Bởi họ không còn nhìn thấy triển vọng nữa, họ biết mọi thứ, vì thế họ cũng thấy mọi thứ sẽ dẫn tới đâu. Và kỳ lạ thay đây là là lúc cảm giác tương tự như khi người ta rơi vào đường cùng”

Đạt tới giới hạn của kỹ năng xử lý thông tin mà một cảnh giới ít người đạt được, nhưng sẽ thế nào khi ở đó ?

Đây cũng là một ý trong Nhà Giả Kim mà có lẽ ít người để ý, khi Satiago hỏi ông giả kim là sẽ thế nào khi ở lại sa mạc.

“Thì cậu sẽ trở thành cố vấn của ốc đảo. Cậu có đủ vàng để tậu nhiều cừu và lạc đà. Cậu sẽ cưới Fatima và năm đầu hai người sẽ rất hạnh phúc. Cậu sẽ tập yêu thích sa mạc và từng cây một của cả năm vạn cây chà là. Cậu sẽ nhìn thấy chúng lớn lên, qua đó thấy một thế giới không ngừng biến dịch, và cậu sẽ càng ngày càng hiểu rõ ngôn ngữ của điềm, của dấu hiệu hơn vì sa mạc là người thầy giỏi nhất. Năm thứ hai, bầy lạc đà của cậu sẽ đem lại cho cậu sự giàu có và quyền lực. Năm thứ ba, đêm đêm cậu sẽ lang thang trong sa mạc, khiến Fatima buồn khổ vì cho rằng chính cô đã cản bước chân cậu. Nhưng cậu yêu cô và cô đáp lại tình yêu đó. Cậu sẽ nhớ lại rằng cô không hề yêu cầu cậu ở lại ốc đảo, vì một người con gái sa mạc như cô biết mình phải chờ đợi chồng trở về. Vì thế mà cậu sẽ không trách cứ cô. Nhưng nhiều đêm cậu sẽ lang thang giữa các hàng cây chà là, nghĩ giá như hồi đó mình đi tiếp và vững tin hơn vào tình yêu của Fatima. Chính sự lo lắng của cậu rằng sẽ không bao giờ trở về được đã giữ chân cậu lại ốc đảo này. Và điềm sẽ báo cho cậu biết rằng kho tàng của cậu từ nay sẽ bị chôn vùi vĩnh viễn. Năm thứ tư, vì cậu cứ lờ đi, các điềm sẽ không xuất hiện lại với cậu nữa. Các tộc trưởng sẽ nhận thấy thế và sẽ không dùng cậu làm cố vấn nữa. Khi đó thì cậu sẽ là một thương nhân giàu có với nhiều lạc đà và hàng hóa. Nhưng cho đến cuối đời cậu sẽ mãi lang thang trên sa mạc, luôn quẩn quanh các gốc chà là, vì biết rõ rằng mình đã không đi theo vận mệnh và giờ thì mọi sự đã quá trễ. Cậu phải hiểu rằng tình yêu không bao giờ ngăn cản ai theo đuổi vận mệnh của mình cả. Nếu để cho chuyện ấy xảy ra thì đó không phải là tình yêu đúng nghĩa, tình yêu của ngôn ngữ vũ trụ.”

Chán nản, xem thường chính các năng lực của mình, xem thường mọi thứ, không phải vì cao ngạo, mà bởi vì đã thấy mọi triển vọng của chúng.

Dĩ nhiên phật cũng đã nói rõ cách thức để xử lý vấn đề này

Tới đây, là ranh giới sự bế tắc, bởi vì đang ở đường biên của thế giới, giống như đang bị giam cầm vì không thể nhìn thấy bên ngoài còn gì. Nhưng chỉ cần quay về suy nghĩ căn bản, rằng cái gì đã tạo ra thế giới, thì sẽ hiểu cách để phá vớ giới hạn.

Thế giới được xây dựng bởi các kinh nghiệm, thông tin hình thành nên mọi thứ, thành cái Tôi mà ôm ấp, tôn thờ. Cho nên khi đã sử dụng thuần thục cái Tôi và các năng lực của nó sẽ chán nản và bế tắc. Ngay cả khi biết mình phải vượt qua chính cái Tôi đó, cũng không biết cách. Như một các nói văn học ” Vượt qua chính mình” thực chất mà một tiến trình phát triển con người mang tính triết học.

Muốn vượt qua ranh giới của kinh nghiệm, nghĩa là muốn phá bỏ sự phụ thuộc vào biểu hiện của cái Tôi bằng cách tư duy, việc đó giống muốn tự tay túm tóc để nhấc bổng bạn lên vậy.

Nhận biết cái Tôi, thấy sự giam hãm của nó với cuộc đời, nhận diện được kẻ cai ngục của mình, là bước đầu trong hành trình biến cuộc đời mình trở thành rực rỡ. Đó là lúc Ích Kỷ và Vị Tha trở nên hài hoà làm một,  khi mà sự thăng hoa, một cách tự nhiên, tạo ra sự tốt lành ra xung quanh.

Cần một con thuyền nhỏ để sang đến bờ bên kia, một con sông nhỏ tạo thành biên giới của nhân loại. Con thuyền đó là thế giới của trực giác, của linh cảm, của tâm trí trống rỗng, vắng bóng tư tưởng và kinh nghiệm.

Bàn sơ sơ, về sự chết

Tôi ít khi bàn về những thứ tiêu cực. Đa số đều nói về những thứ nực cười, ấy thế mà hôm nay, một ngày mưa nhỏ, gió to, tôi lại nghĩ về sự chết, đôi khi đó là một điều hiểu nhiên như việc người làm về tâm lý phải chịu ảnh hưởng, như đợt nói về method acting, hoặc cũng là một tư duy tầm thường một người buộc phải nghĩ tới.

Đầu tiên thì đây không phải lần đầu tôi nghĩ về sự chết, cũng không phải lần đầu tôi thử tìm cách trải nghiệm cảm giác cận tử, nên có thể ,hoặc tôi cho mình có thể nói về sự chết một cách công minh

Để bàn sơ sơ về sự chết, có 2 dạng tư duy làm ảnh hưởng chúng ta lớn nhất, đó là

– Sống để làm gì.

Đây là câu hỏi lớn nhất trong Triết học, như Phật giáo, sống là để trả lại những thứ đã làm trong khiếp trước, vượt qua đủ sẽ dẫn đến cõi niết bàn. Thiên chúa thì lại bảo, sống để trở lên trong sạch hơn, thậm chí nhiều giáo phái còn phụ định việc sống, coi như con người sống chỉ là những nguyên tử tổng hợp lại, kể cả suy nghĩ. Để phản định lại những tư tưởng này thì cũng nhiều cách, như phật thì tại sao chúng ta không biết khiếp trước, khiếp sau, để trả nợ đầy đủ, phủ định điều đó bằng việc chúng ta phải tự nhận ra ư, không, như đã nói trước đó, một đời dựa trên kinh nghiệm và nhận thức, chúng ta không thể biết nếu như chúng ta không biết nó có tồn tại. Còn chúa, sống để trong sạch hơn, như một vấn đề, luôn có nhiều hơn 2 mặt, để trong sạch hơn thì bắt buộc bạn phải lấm bẩn, nếu không bẩn, bạn không thể nhận ra thế nào là sạch, phản định ư, hãy nhìn ten bunny, hãy xem hanibal,.. Còn cuộc sống thật sự không tồn tại, vậy thì những tư tưởng của chúng ta để làm gì, chúng ta có suy nghĩ, vậy suy nghĩ đó có thể do những nguyên tử hợp lại hay chăng.

Vấn đề thứ 2 là

Sau khi chết thì có gì

Phật giáo chia con người thành 6 cõi, cứ google để biết, nhưng vấn đề của việc này lại ảnh hưởng đến thuyết tiến hóa của nhân loại, nếu ai cũng bỏ được  tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố, dục thì con người sẽ tuyệt chủng ngay từ giai đoạn tiền tiền sử, vì tiền sử, chúng ta vì tham mà phát triển, vì sân mà chia giai cấp, vì si mà sinh tình yêu, vì hỉ nộ ái ố mà sinh nhân cách, vì dục mà duy trì nòi giống. Vậy nếu giả sử, ai cũng như phật, thì còn đâu những thứ khác. Còn về thiên chúa và giáo phái kì kì kia thì chết là hết, xin vui lòng không phản biện.

Vậy thì phải hiểu sao về sự chết nếu sống không được, chết cũng không xong

Có một tư tưởng của người dân tộc Mông, đó là ta sống để thực hiện điều mình phải làm và ta chết khi đã làm xong hoặc không làm được.

Ấy thế mà khoa học lại sinh ra hiệu ứng cánh bướm, phủ định tất cả việc trên, một đời người sẽ làm ảnh hưởng tất cả cuộc đời của những người khác, hãy xem It’s beautiful life để hiểu việc này.

Cũng có một giáo phái khá thịnh hành từ đoạn qua đèo Hải Vân đổ vào, là tín ngưỡng phồn thực. Con người sống chỉ để duy trì nòi giống và cải thiện chuỗi thức ăn, thì việc đó đâu khác gì thú vật. Vậy chúng ta sinh ra sách, ăn ngủ đụ ỉa, vật chất, phản vật chất thì có ý nghĩa gì.

Nói chung thì đây là vấn đề cao nhất của triết học, bàn nữa của chẳng đi đến đâu. Vậy nên mọi người chỉ cần sống vui, khỏe có ích là được, kệ mọe mấy ông thần nghĩ linh tinh như chúng tôi

Nhạc Trịnh

Nay nghe lại nhạc Trịnh mới để ý.

Trong bài Đêm thấy ta là thác đổ có đoạn

” Một hôm bước qua thành phố lạ

Thành phố đã đi ngủ trưa ( chưa ) “

Không biết do cô Khánh Ly cố tình nhấn nhá thế, xong dân ngoài vĩ tuyến 17 ghi lại truyền tay nhau đến tận giờ, hay bác Sơn viết thế thật. Nhưng để phân tích 2 nghĩa theo bối cảnh, nghệ thuật, thì thiết nghĩ phải hiểu theo nghĩa “ngủ chưa” sẽ phù hợp hơn.

Để nghĩ theo hướng “đi ngủ trưa”, có 2 trường hợp

– 1 là thành phố cảm giác im lìm trống vắng, nhưng nghĩ theo thế này thì méo ai dùng từ ngủ trưa cả, Việt Nam mình nước nóng, đặc biệt bài này viết trong Huế, nơi mà giữa trưa càng nóng, căng võng vắt ngang đèo Hải Vân nằm ngủ thì may ra mát mẻ hơn 1 tí. Vậy nên mới sinh ra phong tục ngủ trưa. Nhưng ngủ trưa là giấc ngủ ngắn, đa số chỉ nằm thư giãn, nhất là những người già, bọn trẻ toàn bỏ đi chơi là biết. Ngủ trưa không phù hợp với sinh quán con người, nó giống giờ giải lao nhiều hơn, vậy nên nó không đủ im lìm để thấy ta là đá cỏ được, và câu tiếp theo nữa nghe cũng kì cục nốt, đang giờ buổi trưa thì ông ngồi đàn hát hát.

2 là thành phố mang nghĩa chỉ 1 người, thì lại càng kì cục hơn, méo ai đi khoe mình biết cả giờ nghỉ trưa của gái và cũng chẳng liên quan đến 2 câu sau, gái đi ngủ trưa và thấy ta là đá cỏ và ông đi hát, nghe rất là điên điên và biến thái.

– Còn hiểu theo nghĩa “ngủ chưa” như một người lâu ngày mới bước về thành phố, vừa đặt chân đến, muốn thấy thành phố đang thế nào, và hỏi một câu “thành phố đi ngủ chưa”, không thấy người rep, đi xem đá xem cỏ, đi lang thang hát vài câu nhạc cũ trên đường.

Hoặc hiểu theo nghĩa yêu đương vớ vẩn thì đi qua thành phố, nhớ kỉ niệm với gái, nay không còn nữa, bỗng muốn biết gái giờ thế nào, buột miệng hỏi câu đi ngủ chưa dù biết rõ rồi. Bâng khuâng buồn mà thành đá, thành cỏ, mà vấn vâng thì nghe nó thi ca hơn bao nhiêu. Nghe nó cũng không điên điên, biến thái, tính gái nữa, dù chỉ 1 câu thôi cũng nói được tình cảm. Hơn cái nghĩa ngủ trưa luyên thuyên kia

Mà tiện đây cũng nói, nhiều nhà văn Việt Nam, hay tạm gọi là nhà văn đi, thường bỏ đi sự logic của vấn đề. Mọi người nghĩ khi đã vào văn thì cần gì đúng hoàn toàn, nhưng như thế thì chỉ có văn cho bọn trẻ con đọc, văn lòe thiên hạ. Điển hình nhất là cái giai thoại bà cụ đi vào rừng, dẫm phải cái gì đó và về có em bé. ( Bản gốc của truyện đấy là do một người hiện thân trong mơ cho ông bà già ) mà thế nào dịch sang cuốc ngữ lại thành đi lòe ông lão. Nếu dốt toán lý hóa thì mấy ông chẳng luận được ra cái mẹ gì cả mà đòi làm nghệ thuật. Dốt lý thì sẽ bị đuổi từ bài vẽ phối cảnh, dốt hóa thì ông không qua nổi pha màu, dốt toán thì thôi xong.

Đọc của những tác giả lớn, như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, hoặc kể cả mấy ông viết mang tính siêu thực như Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi luôn có sự logic cực cao trong câu chữ mà nét tình vẫn đầy đủ.

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Too Good To Be Trust

Cái ngu nhất của tình yêu là thay đổi bản thân mình vì người khác, và càng ngu hơn khi học cách yêu những thứ người khác có, chung quy lại thì tình yêu là sự ngu ngốc.

Nếu thay đổi bản thân vì người khác thì thực chất khi yêu, họ yêu người khác chứ đâu phải bạn, và học cách yêu những thứ của họ thì cũng vậy thôi, bạn yêu cái khác chứ đâu phải họ.

Thực tế thì sách báo Việt Nam chẳng ông bỏ mẹ nào biết yêu cả, mà thật ra thì yêu đương Việt Nam vẫn nằm ở mức mơ hồ dù có kho tàng văn chương đồ sộ, vốn vì tư duy và văn hóa người Việt Nam là vậy.

Tây nó có tư tưởng yolo nên thành ra họ cũng có tư tưởng cá cược và chấp nhận, nên vô tình chung tạo ra những tình yêu thật sự, là yêu chính người đó, không quan trọng họ làm gì, là gì, thế nào, như Forrest Gump hay Gastby. Còn chúng ta thì vẫn còn lầm tưởng về người yêu và khoảng khắc yêu đương, thành ra sinh ra những dạng tình yêu kiểu nhày nhụa, nhớp nháp rất kinh

Bạn đi dạo dưới ánh trăng một mình, và nhớ lại khi có người yêu và muốn có người yêu bên cạnh, đó là dạng bạn yêu khoảng khắc đó, chứ không phải bạn yêu người đó. Một người say mèm gọi cho một cô, nó bảo yêu cô nhiều, các cô nghĩ họ lãng mạn ư, không, thật ra là ông sỉn lắm rồi, muốn có người nói chuyện chém gió cùng lúc đó thôi. Hôm sau lúc vui vẻ, gái gú bu quanh thì nó chẳng nhớ đến cô là ai đâu. Văn chương cũng vậy, ngay cả Chí Phèo, Thị Nở, cái đôi mà bao nhiêu thế hệ học sinh lãng mạn hóa, thực chất là ông yêu cái cảm giác được quan tâm, chứ đéo phải yêu Thị Nở, giả sử như có đứa khác múc cho bát cháo hành, Chí có yêu họ như Thị không. Câu trả lời ai cũng rõ. Hay Lan và Điệp, thế hệ trước của Anh chị Chí, Nở, thơ ca sướt mướt mãi. Rồi suy cho cùng thì Điệp là đứa dốt nát và Lan là một con cù lần, chẳng có mẹ gì đáng tự hào cả. Hay kể đến hàng cụ của Chí với Nở đi, Trọng với Kiều cũng là một kiểu lừa dân ít chữ.

Ấy thế mà nếu không phải thích một người vì một sự vật, hiện tượng, câu chuyện nào đó thì còn gọi gì là tình cảm. Mà càng không được gọi là tình yêu. Tất cả sự thích trên đời đều chẳng phải thích vật ấy, mà là có lý do để thích vật ấy, đồ cổ là họ thích câu chuyện của nó, quần áo là thích cái đẹp của nó,… Nhưng mà tất cả những thứ đó đều có nhiều, khi tăng về lượng thì chất mới tăng, nhưng mà sau khi cưới lại chỉ được yêu có 1, vậy nên mới bảo tình yêu là sự ngu ngốc. Nếu để ý kỹ một chút thì các nhân vật kiệt xuất đều không lấy vợ, bỏ vợ hoặc sẽ ngoại tình. Bởi vì sao, vì một món ăn, một cảm giác, dù quen, dù thân thuộc đến mấy cũng đến lúc chán, trừ những rằng buộc nhất định hoặc những người không đủ nhận thức để phân biệt được giữa cái mình muốn và nhận thức, và những người không thể thực hiện cái mình muốn. Quy luật là vậy, giống như đạo, đi theo thì thuận, ngược chiều sẽ bị loại bỏ, ví như văn hóa Phương Đông có câu ” Giàu đổi bạn, sang đổi vợ ” hoặc phương Tây có câu ” too good be trust “

Bản năng nguyên thủy của loài người là ngoại tình, hay gọi theo các cụ là đa thê, nhằm duy trì nòi giống. Cấu tạo của dương vật đàn ông cũng là để lấy tinh trùng của đàn ông khác ra, và cấu tạo của đàn bà là giữ được nhiều tinh trùng khỏe nhất.

Các cụ ngày xưa dĩ nhiên nhận ra điều này. “Tức hạ phá thượng” nên thời phong kiến duy trì chế độ đa thê để ông không phải ngày nào về cũng nhìn mặt 1 bà, và cho ông đủ tư tưởng để phục vụ tốt hơn cho xã tắc. Nhưng sau này bãi bỏ mà theo quan niệm là văn minh hơn, nhưng thực ra là truyền thông đã me tây hơn, làm cho tỉ lệ ngoại tình càng ngày càng tăng, và cũng làm cho giới tri thức bị ngu đi nhiều

Có thể do tư tưởng Khổng Giáo, kinh trên nhường dưới của văn hóa Hoa Hạ làm sinh ra tư tưởng đó, tư tưởng tình yêu là phải chiếm hữu. Làm cho con đực, con đực phải trở thành con đặc biệt nhất, thành ra con cái phải trở thành con đẻ tốt nhất hoặc con đực phải trở thành con nuôi sống được con cái, vì thế nên con đực lúc nào cũng có quyền lựa chọn. Không tính đến những nước văn minh còn chưa đủ 1000 năm. Thì chế độ phụ hệ luôn là chế độ của văn hóa, đi ngược lại tất sẽ bị loại bỏ, dù có hơi cổ hủ, nhưng too good be trust

Sự ngộ thức – Tỉnh thức ( bodhi – enlightenment )

Nhiều người đọc sách phật – đi tu tập mà không hiểu được bản chất của nó, vẫn chấp niệm vào cái hình, cái tướng để phán xét, nhìn nhận sự việc,

Dễ thấy nhất điều này ở quần chúng Đông Lào thể hiện rõ qua 2 việc là đi chùa – ăn chay,…. Nói chung rất là buồn cười. Bản chất của việc ăn chay là để không nghĩ đến thịt, hạn chế động lòng sinh sát thì các phú ông, phú bà làm cho món chay có đủ mọi loại hình thái, đủ mọi mùi vị, y như thịt, bán đắt gấp 10 lần, vui vẻ tận hưởng mà cứ nghĩ mình ăn chay ( Không bàn đến người kinh doanh), vậy thì thử hỏi, bỏ miếng ăn làm tự bột vào mồm, mà trong lòng vẫn thèm thịt nhưng vẫn tự chấp niệm, lừa dối như là thanh thản, có đúng hay chăng. Đi chùa để tâm tịnh, các mẹ chen nhau, chửi nhau từ biển hạ mã đến hết bậc tam cấp cuối cùng, vào chùa thì các bố đâm thẳng cửa trung quan mà vào, 2 bên giả quan và không quan thì các bố ra để hút thuốc, vứt rác, sờ mó, thì thử hỏi các bố các mẹ đi chùa làm gì, trong khi đến những phép tắc sơ đẳng các bà còn chẳng biết.

Làm những người trí huệ như chúng tôi ngày nào cũng phải ngăn mình không cười vào mặt họ.

“Đặc điểm lớn nhất của xứ sở này là nhược tiểu. Đây là một cô gái đồng trinh bị nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp. Cô gái ấy vừa thích thú, vừa nhục nhã, vừa căm thù nó”

Như Nguyễn Huy Thiệp viết trong “Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt”

Bản chất gái của dân Việt Nam mà mấy ông hay nói đùa nhau là khôn lỏi thực ra cực kì có hại cho sự tri thức, khi mà sự khách quan, điều logic thì vứt mẹ đi, thay vào đó là tình người và tính hào sảng, đến mức mớ giấy a4 ” Khéo ăn nói sẽ có được thiên hạ” lại bán chạy hơn “Đắc nhân tâm” ở Việt Nam, thì phải hiểu tư duy của dân mình đang tầm nào, mà ít ra còn có suy nghĩ đến chuyện đóc sách, chứ tôi chưa thèm nói gì đến những con người có hỏi câu hào sảng là

” Mua sách để làm gì ” đâu

Mà thôi, chủ nhật nên để nhẹ nhàng, nào rảnh biên nốt cho anh chị em cười cười chơi

Giới hạn

Trong lý thuyết về Tính Dục (psychosexual) của Sigmund Freud. Bố của phân tâm học có một ý mà hiểu rộng ra nó giống thế này

“Kỹ năng của con người hình thành từ các kinh nghiệm và thông tin thu thập được trong quá khứ. Xử lý các thông tin đó là cách để hình thành kỹ năng. “

Nhưng mà cũng phân tâm học. Mr Lacan, đệ của Freud chỉ ra rằng

“Một người khi đạt tới ranh giới của kỹ năng sẽ rơi vào cảm giác giống như tuyệt vọng. Bởi họ không còn nhìn thấy triển vọng nữa, họ biết mọi thứ, vì thế họ cũng thấy mọi thứ sẽ dẫn tới đâu. Và kỳ lạ thay đây là là lúc cảm giác tương tự như khi người ta rơi vào đường cùng”

Đạt tới giới hạn của kỹ năng xử lý thông tin mà một cảnh giới ít người đạt được, nhưng sẽ thế nào khi ở đó ?

Đây cũng là một ý trong Nhà Giả Kim mà có lẽ ít người để ý, khi Satiago hỏi ông giả kim là sẽ thế nào khi ở lại sa mạc.

“Thì cậu sẽ trở thành cố vấn của ốc đảo. Cậu có đủ vàng để tậu nhiều cừu và lạc đà. Cậu sẽ cưới Fatima và năm đầu hai người sẽ rất hạnh phúc. Cậu sẽ tập yêu thích sa mạc và từng cây một của cả năm vạn cây chà là. Cậu sẽ nhìn thấy chúng lớn lên, qua đó thấy một thế giới không ngừng biến dịch, và cậu sẽ càng ngày càng hiểu rõ ngôn ngữ của điềm, của dấu hiệu hơn vì sa mạc là người thầy giỏi nhất. Năm thứ hai, bầy lạc đà của cậu sẽ đem lại cho cậu sự giàu có và quyền lực. Năm thứ ba, đêm đêm cậu sẽ lang thang trong sa mạc, khiến Fatima buồn khổ vì cho rằng chính cô đã cản bước chân cậu. Nhưng cậu yêu cô và cô đáp lại tình yêu đó. Cậu sẽ nhớ lại rằng cô không hề yêu cầu cậu ở lại ốc đảo, vì một người con gái sa mạc như cô biết mình phải chờ đợi chồng trở về. Vì thế mà cậu sẽ không trách cứ cô. Nhưng nhiều đêm cậu sẽ lang thang giữa các hàng cây chà là, nghĩ giá như hồi đó mình đi tiếp và vững tin hơn vào tình yêu của Fatima. Chính sự lo lắng của cậu rằng sẽ không bao giờ trở về được đã giữ chân cậu lại ốc đảo này. Và điềm sẽ báo cho cậu biết rằng kho tàng của cậu từ nay sẽ bị chôn vùi vĩnh viễn. Năm thứ tư, vì cậu cứ lờ đi, các điềm sẽ không xuất hiện lại với cậu nữa. Các tộc trưởng sẽ nhận thấy thế và sẽ không dùng cậu làm cố vấn nữa. Khi đó thì cậu sẽ là một thương nhân giàu có với nhiều lạc đà và hàng hóa. Nhưng cho đến cuối đời cậu sẽ mãi lang thang trên sa mạc, luôn quẩn quanh các gốc chà là, vì biết rõ rằng mình đã không đi theo vận mệnh và giờ thì mọi sự đã quá trễ. Cậu phải hiểu rằng tình yêu không bao giờ ngăn cản ai theo đuổi vận mệnh của mình cả. Nếu để cho chuyện ấy xảy ra thì đó không phải là tình yêu đúng nghĩa, tình yêu của ngôn ngữ vũ trụ.”

Chán nản, xem thường chính các năng lực của mình, xem thường mọi thứ, không phải vì cao ngạo, mà bởi vì đã thấy mọi triển vọng của chúng.

Dĩ nhiên phật cũng đã nói rõ cách thức để xử lý vấn đề này

Tới đây, là ranh giới sự bế tắc, bởi vì đang ở đường biên của thế giới, giống như đang bị giam cầm vì không thể nhìn thấy bên ngoài còn gì. Nhưng chỉ cần quay về suy nghĩ căn bản, rằng cái gì đã tạo ra thế giới, thì sẽ hiểu cách để phá vớ giới hạn.

Thế giới được xây dựng bởi các kinh nghiệm, thông tin hình thành nên mọi thứ, thành cái Tôi mà ôm ấp, tôn thờ. Cho nên khi đã sử dụng thuần thục cái Tôi và các năng lực của nó sẽ chán nản và bế tắc. Ngay cả khi biết mình phải vượt qua chính cái Tôi đó, cũng không biết cách. Như một các nói văn học ” Vượt qua chính mình” thực chất mà một tiến trình phát triển con người mang tính triết học.

Muốn vượt qua ranh giới của kinh nghiệm, nghĩa là muốn phá bỏ sự phụ thuộc vào biểu hiện của cái Tôi bằng cách tư duy, việc đó giống muốn tự tay túm tóc để nhấc bổng bạn lên vậy.

Nhận biết cái Tôi, thấy sự giam hãm của nó với cuộc đời, nhận diện được kẻ cai ngục của mình, là bước đầu trong hành trình biến cuộc đời mình trở thành rực rỡ. Đó là lúc Ích Kỷ và Vị Tha trở nên hài hoà làm một, khi mà sự thăng hoa, một cách tự nhiên, tạo ra sự tốt lành ra xung quanh.

Cần một con thuyền nhỏ để sang đến bờ bên kia, một con sông nhỏ tạo thành biên giới của nhân loại. Con thuyền đó là thế giới của trực giác, của linh cảm, của tâm trí trống rỗng, vắng bóng tư tưởng và kinh nghiệm.

Ngữ âm Đông Lào luận – thanh điệu của Tiếng Việt.

Hầu hết người Việt, bất kể được dạy dưới mái trường XHCN, hay du học sinh nhặt chữ lẻ ở Tây Dương, khi được hỏi về tiếng Việt có bao nhiêu thanh, đều sẽ có chung một câu trả lời, đó là tiếng Việt có 6 thanh (six tones), đây là kiến thức cơ bản về ngữ âm Đông Lào trong sách vở mà thực dân Gô Loa đã tuyên truyền cho dân ta từ hàng trăm năm về trước, rút ra bởi một nhóm lắm lông kính trắng ngồi rà văn bản Cuốc Ngữ, được viết bởi một lắm lông kính trắng khác tên Á Lịch Sơn Đắc Lộ từ tận thế kỷ 17.

Tuy nhiên điều này là sai lầm một cách ngu dốt, trước khi trả lời câu hỏi trên, chúng ta phải hiểu xem tiếng Việt thực sự là tiếng gì đã? Khái niệm “tiếng Việt” móc ở đâu ra? Nguyễn Du có gọi thứ ngữ âm nói mà người ta dùng để đọc Truyện Kiều của mình là “tiếng Việt” hay không? Chưa kể người Việt ở những thời đại trước Tố Như, họ gọi ngôn ngữ nói của họ là tiếng gì?

Trước hết phải hiểu, ngôn ngữ nói của chúng ta (hay cả tiếng phổ thông Trung Quốc) đều là bạch thoại. Bạch thoại tức là ngôn ngữ nói của dân gian, và nó chỉ để nói mà thôi. Trong các xã hội truyền thống của Đông Á, người giỏi chữ là tầng lớp trí thức, và khi viết thành văn bản, họ không dùng bạch thoại, mà dùng một loại ngôn ngữ riêng gọi là Văn Ngôn, hay còn có tên khác là Cổ Văn.

Văn Ngôn là ngôn ngữ VIẾT, tức là chỉ dùng khi viết mà thôi, nếu đọc lên đặc biệt là cho những người không biết chữ, họ sẽ rất khó hiểu, vì nó KHÔNG có ngữ pháp giống như bạch thoại, thậm chí không có ngữ pháp cố định (dạng SVO-SOV). Người ta học Văn Ngôn bằng cách đọc thật nhiều các văn bản cổ từ thời Kinh Xuân Thu, rồi cố học theo cách hành văn ấy.

Văn Ngôn cũng chứa rất nhiều các siêu liên kết, nội dung cô đọng, nó là dạng văn bản cô đặc ý nghĩa nhất của nhân loại, một tờ giấy nhớ ghi văn ngôn, để diễn Nôm ra thì phải mất đôi trang A4. Văn học chữ Cuốc Ngữ (tân văn) của người Bắc Kỳ vẫn có thể giữ được sự hàn lâm và tinh tế, chính là vì các tác giả thế hệ đầu (như Nguyên Hồng) đều là các cao thủ Văn Ngôn, và nó làm tiêu chuẩn, mực thước cho các thế hệ nhà văn tiếp theo.

Tất cả các sách kinh điển của Trung Hoa, Việt Nam, Nhật, Lưu Cầu và Cao Ly đều viết bằng Văn Ngôn. Người Nhật vẫn nói tiếng Nhật, người Cao Ly vẫn nói tiếng Cao Ly và người Việt vẫn chửi địt mẹ, tuy nhiên các văn bản của các nước này đều chỉ viết bằng một loại ngôn ngữ Văn Ngôn tinh hoa ấy, nên trí thức nước này đọc sách nước kia hoặc nói chuyện với nhau bằng bút đàm rất tiện. Nhiều người nhầm lẫn cứ thấy sách cổ có chữ vuông vuông chéo chéo là nghĩ dân Tàu hay Đài Loan đọc được là sai hoàn toàn. Họ có thể đọc được từng chữ, nhưng nội dung sẽ không hiểu gì cả, chả khác gì chúng ta đọc các văn bản cổ bằng phiên âm.

Tiếng Việt chính là bạch thoại Hán Đường, và giọng Bắc chính là giọng của quý tộc Tràng An. Lý Bạch khi tiễn bạn ở Bá Lăng thì làm thơ theo ngữ pháp cổ văn, nhưng chiều ra chợ cóc mua rau thì lại dùng ngôn ngữ nói của người Phố Cổ.

Vì tiếng Việt là bạch thoại Hán Đường, nên không thể chỉ có 6 thanh, mà chính xác là nó phải có 8 thanh. Tuy nhiên khi ký âm bằng latin, chúng ta bị mất 2 thanh, trong đó có một thanh cao hơn thanh sắc, và một thanh thấp hơn thanh nặng. Không phải nó biến mất khỏi hệ thống ngữ âm, mà là nó bị chuyển thành chữ khác, chính xác là phụ âm cuối sẽ bị biến đổi nếu ký âm những thanh này, dù bản chất chúng là cùng 1 âm (manh/mách/mạch, an/át/ạt. um/úp/ụp….)

Một bằng chứng thanh điệu này còn lưu lại ở ngay trong thanh điệu của ca trù, một dòng nhạc thần thánh của người Bắc Kỳ. Đàn của ca trù sử dụng 4 âm tinh tính tình TÍCH. “Tích” khi viết ra chữ latin thì nó trở thành một âm khác hoàn toàn vì sự hạn chế của hệ thống ngữ âm Bồ Đào Nha. Người Việt cổ coi chúng là một âm vì khi chưa có chữ Cuốc Ngữ, họ chỉ đọc bằng miệng và ghi bằng chữ Hán, mà thôi. Tiếng Bắc Kinh bị thiếu thanh so với tiếng Việt chính là do mất các phụ âm cuối này, rất hợp lý và dễ hiểu.

Như vậy, ngôn ngữ mà người Việt thần thánh chúng ta ngày nay sử dụng là ngôn ngữ của nhà Đường, có đủ 8 thanh, đi 7 bước là ra bài thơ dài như râu cụ Kình mà vẫn chuẩn niêm luật của người xưa. Người Việt nếu xuyên không thì có thể vào triều kiến Lý Thế Dân mà không cần phiên dịch. Dòng giống của chúng ta là Đường Nhân, Hoa Hạ, đó là niềm tự hào, đồng thời cũng đặt ra cái trách nhiệm về gìn giữ, bảo tồn cái tiếng mẹ đẻ của mình. Những kẻ phá hoại tiếng Việt cần phải nghiêm trị như tội hình sự, ví như đứa nào phát âm sai hỏi-ngã thì tốt nhất cứ cắt mẹ lưỡi đi.

Ảnh minh hoạ: Cổ Văn aka Văn Ngôn của anh em quan lại nhà Nguyễn thời đi sứ Phú Lãng Sa.

Chữ Cuốc Ngữ

Trước có vụ anh anh em Đà Nẵng sáng suốt và quyết đoán, từ chối đặt tên thằng thực dân mặt giặc De Rhodes cho con đường ở thành phố, muốn giải thiêng nhẹ mấy huyền thoại về cái-gọi-là sự thần thánh của chữ Cuốc Ngữ – một thứ mọi tự gốc Bồ (Latin) dùng để ký âm tiếng Việt (Hán cổ thời Đường), được các thể loại me Tây đặc biệt là anh em Công giáo vẽ ra cả trăm năm nay, tô vẽ cái công cụ của thằng cướp nước, cưỡng hiếp văn hóa truyền thống của người Đông Lào ta.

Huyền thoại đầu tiên là, “chỉ duy nhất người Việt có hệ thống chữ viết ký âm latin thành công”. Anh em me Tây quả quyết rằng bọn Châu Á khác không làm được một hệ chữ viết tương tự Quốc Ngữ, vì không có một anh thần thánh tương tự De Rhodes, các anh em gọi điều này là “De Rhodes đưa Việt Nam đi trước Tàu 3 thế kỷ”.

Tuy nhiên có sự khác nhau giữa “không thể ký âm” và “đéo thèm dùng ký âm”. Thực tế thì mọi ngôn ngữ đều có thể ký âm Latin, ngoại lệ duy nhất có lẽ là tiếng của người Khoisan săn bắn hái lượm ở Châu Phi, chính là đồng bào của gia đình trong phim “Thượng đế cũng phải cười”, do tiếng nói của họ tồn tại các phụ âm click dùng tiếng bật của răng và lưỡi, không có ký tự tương tự trong bảng chữ cái Latin. Các nhà ngôn ngữ học khi thử ký âm Latin tiếng nói của bộ tộc này, họ phải dùng cả các ký tự đặc biệt như “!” hay “ǂ” mới ghi được.

Người Trung Hoa cũng có một hệ chữ ký âm latin tương tự Quốc Ngữ, chính là Pinyin (Bính Âm), có đầy đủ cả dấu như tiếng Việt, viết thành văn bản đọc vẫn hiểu bình thường. Phòng trường hợp các anh chị mõm vẩu không biết, thì bản thân từ “China” cũng là một chữ ký âm, khi người La Mã lần đầu tiên tiếp xúc với người Hoa Hạ vào triều đại nhà Tần (Qin – đọc là Chin) cách đây từ hơn 2000 năm, và họ lấy luôn chữ Chin đó để đặt tên cho vùng đất nơi họ hàng năm phải đem vàng sang quỳ lạy để mua lụa và đồ gốm sứ.

Nhưng Bính Âm chỉ dùng để người nước ngoài học tiếng Tàu, hoặc bỏ dấu để đặt tên cho các công ty, nhãn hàng cho người nước ngoài đọc được, chứ đéo thể dùng trong giáo dục, khoa học kỹ thuật được, vì cũng giống như Quốc Ngữ, nó chỉ đơn giản là ký lại cách phát âm, hoàn toàn đéo truyền tải được nội hàm của từ như chữ tượng hình. Trí thức Đông Lào trở nên ngu dốt hơn một thế kỷ gần đây, chính là hậu quả của việc dùng chữ ký âm, trong khi bản thân tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm, vốn phù hợp với dùng tượng hình thần thánh.

Huyền thoại thứ hai, đó là “chữ Hán là chữ tượng hình nên không thể ký âm như chữ Quốc Ngữ”. Đây thực tế là trò, mà như tôi hay gọi, là “trộn cứt với xôi”. Việc chữ Hán là tượng hình không liên quan tới khả năng ký âm, khi ngay chính tên của thằng De Rhodes vẫn được ký âm là Đắc Lộ.

Tên tất cả các quốc gia mà ta đọc được bằng tiếng Việt, từ Anh, Pháp, Hà Lan, Hoa Kỳ… thực tế đều là ký âm bằng chữ Hán.

Huyền thoại thứ 3, đó là “chữ Quốc Ngữ giúp người Việt tiếp cận khoa học kỹ thuật phương Tây dễ dàng hơn”. Đây là quan điểm được nhai đi nhai lại nhiều nhất, nhưng lại là ngu nhất trong tất cả các luận điểm.

Tất cả mọi khái niệm khoa học kỹ thuật, triết học, âm nhạc của phương Tây đều dịch được ra chữ Hán, và do đó người Việt vẫn có thể dùng trực tiếp mà chả cần phiên âm kiểu hamlol như xích-lô, gác-đờ-bu…., và điều này sẽ giúp hiểu cặn kẽ nội hàm của khái niệm bằng chính tiếng mẹ đẻ.

Ngay như trong toán học, tất cả các khái niệm toán mà ta học ở THPT cũng vốn là từ sách toán của Tàu thời Minh, chứ các anh chị nghĩ bọn Pháp nó biết “tam giác”, “tích phân”, “khai căn”…. nghĩa là gì để dạy các anh chị theo kiểu tổ tiên ta là người Gô-loa, hay sao???

Thực tế thì ngay ở Châu Á, chính các nước dùng chữ vuông (như Tàu, Nhật, Đài, Hàn…) mới là các cường quốc khoa học kỹ thuật, mới làm được kỹ sư, bác học và ông chủ, còn bọn dùng latin hay chữ giun thì chỉ làm được cu li, làm phò, mặc sịp cầu vồng, hát trên 4 vùng chiến thuật và nói về tình người, mà thôi.

Hangul của Hàn bàn chất cũng là chữ ký âm, do tự họ sáng chế ra để ký âm tiếng Cao Ly, tuy nhiên hệ chữ ký âm “cực dễ học và đẹp nhất thế gian”, theo lời Triều Tiên Thế Tông anh tôi, vẫn đơn giản là dùng như một bạch thoại và teencode. Sinh viên Luật và Y Khoa hay các chuyên ngành khác của Hàn vẫn phải dùng Hán Tự Hỗn Dụng – một dạng văn bản kết hợp cả Hangul lẫn chữ Hán, tương tự như người Nhật, vì chữ ký âm, tượng thanh, như đã nói, không thể truyền tải được nội hàm của các khái niệm hàn lâm.

Indo và Mã Lai là hai ví dụ châu Á dùng ký âm latin, và hậu quả là đéo thể viết một hóa đơn sửa xe máy bằng tiếng Bahasha mà không dùng 100% các thuật ngữ bằng tiếng Anh.

Cái tiện nhất của Cuốc Ngữ, theo tôi thấy, đó là dùng làm thơ con cóc. Xưa kia thơ thì phải gieo vần, tuy nhiên các chữ Hán hay Nôm luôn hữu hạn, cần phải có vốn từ vựng rộng mới làm được thơ, còn giờ thì ai cũng là nhà thơ, chỗ nào gieo vần khó quá thì ta chế ra từ mới, đến người quá vỹ tuyến 17 ngày nay còn làm được thơ, là đủ hiểu.

Vậy nên, cần nhìn nhận cho đúng, rằng chữ Quốc Ngữ là một hệ chữ mọi, và chúng ta, do hoàn cảnh lịch sử, đang phải viết một loại chữ mọi, thế thôi. Loại chữ này giống như cây tre, mọc rất nhanh, dùng cũng rất tiện, nhưng nghìn năm sau nữa cũng chỉ có thể dùng làm chuồng trâu, chuồng vịt mà thôi, chứ làm cột lâu đài là vĩnh viễn bất khả thi.

Liệu có cần phải mang ơn một thằng thực dân, chỉ vì một loại chữ ký âm, mà vốn cái mục đích của nó sinh ra từ đầu, là vĩnh viễn giữ trí tuệ, tư duy và tâm hồn dân tộc ta ở mức trung bình và nô lệ?

Cái đẹp

“Đây có thể tính là một lời tình ca, để dành cho những cái đẹp, hư ảo, sương khói. Tôi là một người hoài cổ, và mong muốn dành hết tâm lực, trí lực, để níu giữ những cái đẹp đã mất. Bản tình cho giai nhân, mượn hình tượng trăng và nước, để diễn tả cho sự hoài vọng cái đẹp. Có thể đặt cho nó một cái tên khác, là bản hát ru”

Tôi ngồi giữa chõng tre, nằm nghe gió thổi mưa qua, thì giờ về muộn hơn chiều nhưng sớm hơn tối, lững thững trôi dạt bồng bềnh, cỏ non mơn chớn đôi chân, biêng biếc bên hông, mưa phùn về thăm lất phất trên mặt, gió thì thầm, thoảng thoảng hương đất, ôm ấp thân thể, hoàng hôn nhuộm chín đỏ cầu vồng, ùa vào trong mắt. Nâng niu chén trà xanh biếc, vị quỳnh hoa thanh thanh, âu yếm quyển sách cũ, vàng hoen màu trưởng thành. Đã quá lâu rồi tôi mới được thư thả, như vậy. Tận hưởng, mọi thứ, ở mọi giác quan.Mọi thứ

Trong vài chục năm gần đây, nhiều người Đông Lào bắt đầu giàu lên, và nhu cầu sống một cuộc sống thượng liu, sang chảnh trở nên rất chính đáng và cấp thiết. Đau lòng ở chỗ, nhiều thứ tiền không thể mua được, hoặc không biết chỗ để mua, dẫn tới một trào lưu đua nhau sắm sửa, ăn mặc, xây dựng những thứ đắt nhất, lạ nhất, to nhất, chứ không phải thứ phù hợp nhất, khiến kẻ mấy đời thượng liu như tôi chỉ biết thở dài, đau xót. Vẫn biết là tiền của người ta, tiêu thế nào là việc họ, nhưng nếu nén lòng chẳng dám nói ra, lại sợ bị đánh đồng với kẻ trọc phú chăng? Nên đành múa phím mà đưa ra mấy lời từ tâm can vậy.

Khác với những anh em mới dịch hàng rào, người ở tầm cự phú, không bao giờ bị ám ảnh với KPI trong tiêu pha để thể hiện đẳng cấp có tiền, mà hướng tới sự thoải mái, tối giản, để nâng chất lượng cuộc sống, tinh thần, sức khỏe lên mức cao nhất. Thế nên, họ chẳng coi ăn foie gras ngày 3 bữa, súc miệng bằng uýt-ky, mặc full cây hàng hiệu Tràng Tiền là phong vị của đế vương. Ngược lại, giới tinh hoa, họ ăn uống rất thanh đạm, ngày bình thường là mấy loại hạt linh tinh, rau xanh với nước hoa quả ép, ngày có lễ thì rượu nút lá, bát gia vị phải đủ tỏi hành phi thơm, ớt chỉ thiên chín đúng độ #B22222, bỏ hạt, cắt đúng 1mm mới chịu, mặc thì chỉ cốt sao thoải mái và hợp với hoàn cảnh là được, thậm chí mặc đồ hiệu có logo lộ ra bên ngoài, họ cũng sẽ bắt phải cắt đi.

Cuộc sống thượng liu, theo quan điểm của tôi, đó là đưa sự hưởng thụ, thoải mái, sung sướng lên mức cao nhất trong tất cả mọi hoạt động dù nhỏ đến đâu. Khi ta nấu nướng, dụng cụ, gia vị phải ở đúng trí thuận tay của nó. Khi ta chạy treadmill, tầm mắt phải có view đẹp nhất lúc thành phố lên đèn. Giường ngủ nếu không có nệm, gối bọc lụa Vạn Phúc, đầu giường êm ái, thảm mềm kê chân, thì dù có bằng gỗ sưa, gỗ cức cũng chỉ đáng chẻ ra làm củi. Vo gạo không đủ 3 lần thì không ăn, trần nhà không được 5 mét thì không ở, dùng bữa ở bàn cao, uống trà ở bàn thấp, mùa đông nghe Bach, mùa hạ thưởng Schütz, tuyệt đối không được bao giờ được lẫn lộn…

BỰC QUÂN TỬ

BỰC QUÂN TỬ thời xưa, ở Á Đông đại khái có thể chia ra làm hai hạng người có hai lối nhân sinh, hai đường xử thế khác nhau rất rõ rệt.

Hai hạng người đó, mỗi hạng đều ôm ấp một tâm sự… Muốn tìm hiểu tâm sự của mỗi người, một quyển sách cả ngàn trang cũng không sao nói được hết ý. Thế mà nếu có thể tóm lại, người ta cũng có thể tóm lại trong một câu chuyện hết sức gọn gàng đầy đủ trong một trang sách nhỏ: Câu chuyện Khuất Nguyên và lão đánh cá. Đấy cũng là chỗ sở trường của người Á Đông vậy.

Khuất Nguyên làm quan cho vua Hoài Vương nước Sở, bị sàm báng mà bị phóng khí. Mặt mũi tiều tụy, hình dung khô héo, Khuất Nguyên vừa đi vừa hát ở bên bờ đầm.

Có ông lão đánh cá trông thấy hỏi:

– Ông có phải là Tam lư đại phu đó không? Sao mà đến nỗi khốn khổ như vậy?

Khuất Nguyên nói:

– Cả đời đục, một mình ta trong; cả đời say một mình ta tỉnh, bởi vậy ta mới bị phóng khí.

Ông lão đánh cá nói:

– Thánh nhân không câu nệ việc gì, lại hay tùy thời. Có phải đời đục cả, sao ông không khuấy thêm bùn, vỗ thêm sóng cho đục theo một thể? Loài người say cả, sao ông không biết ăn cả men, húp cả bã cho say theo một thể? Việc gì mà phải phòng xa nghĩ sâu cho đến nỗi phải bị phóng khí?

Tâm sự của Khuất Nguyên đâu phải riêng gì của Khuất Nguyên, mà nó là tâm sự chung của phần đông nhân loại từ xưa đến nay vậy.

Cả đời đục, một mình ta trong,

Cả đời say, một mình ta tỉnh…

Lòng tự ái của ta xui ta bao giờ cũng tin tưởng như thế. Điều ta nghĩ luôn luôn đúng; việc ta làm luôn luôn phải. Không đúng, không phải, làm sao ta dám nghĩ, dám làm… Thằng bất nhân bất nghĩa nhất trong đời có bao giờ tin mình là bất nhân bất nghĩa đâu.

Dầu là một kẻ ngu… cũng vẫn tin việc mình là phải. Người xưa nói: Ta có thể đoạt ấn soái giữa chốn ba quân, nhưng không thể đoạt được dễ dàng cái chí của một kẻ thất phu. Câu nói này thật là một câu nói khám phá được cả tâm sự loài người.

Cái chết của Khuất Nguyên là cái chết dĩ nhiên… cái chết tỏ sự bất lực của mình không đủ uy thế để bắt buộc kẻ khác phải nghe theo mình, vì ai ai vẫn tin như mình:

Cả đời đục, một mình ta trong,

Cả đời say, một mình ta tỉnh…

và, bởi có đủ quyền bắt buộc kẻ khác phải nghe theo, nên lẽ dĩ nhiên họ phải sa thải mình, nếu mình không đồng ý kiến với họ… Đó là lẽ dĩ nhiên nó phải vậy: kẻ nào mạnh, thì thắng…

Trích cuốn “Thuật xử thế của người xưa” __ Thu Giang Nguyễn Duy Cần

Lời bàn :

Mỗi người đều có một Tâm kết, đó là một vấn đề trong tâm tư của ta và dường như đó là trung tâm, mọi thứ khác trong ta đều đang xoay quanh đám rối đó. Càng ác cảm và tiêu cực với nó thì nó càng kết lại, lớn hơn và chi phối đời ta nhiều hơn, chặt chẽ hơn.

Làm thế nào với Tâm kết của mình ? Ta chỉ việc công nhận nó, không phải là đồng tình với nó, mà đơn giản là nhận thức sự tồn tại của nó, không ưu thích cũng không ghét bỏ.

Khi ta công nhận đặc tính riêng của mình, ta sẽ dần học hiểu được thế nào là công nhận.

Khi ta càng công nhận được Tâm kết của mình thì nội tâm ta càng vận hành tự nhiên, không kháng cự mà lại tự nhiên kháng cự. Như nhìn vào vòng tròn âm dương, thấy đen theo trắng hay là trắng theo đen ? Đen trắng theo nhau hay là đen trắng đang cố dời nhau ?