Biển của mọi người

Ông già nói Tết này chắc ông đi Phú Quốc, còn nếu mua vé máy bay không được, ông sẽ xuống Hà Tiên nằm chơi ít bữa. Đứa trẻ gặp ông lần thứ năm, hay thứ bảy, nó cũng không còn nhớ, chỉ nhớ gặp lần nào nó cũng có vài chuyện để ngớ ra, vì bất ngờ, vì những điều nó chưa biết. Và ngồi ở cái quán café Sài Gòn, chung quanh rựng nắng lên, lần đầu tiên đứa trẻ hay, Tết nào thì ông bạn già nó cũng đi về phía biển.

Đứa trẻ biết ông yêu biển, có chuyến đi chung, ông làm nó ấm ức không thôi, vì nó thích đá, thích rừng ông lại sướng rơn khăng khăng đòi đi biển. Tập thơ mà ông tặng nó chỉ ba mươi bài, thì đã có mười bài ông viết về biển, những bài có chữ “biển” nó không tính. Có một bài thơ rất cảm động, ông đứng ở ngôi “tao” viết cho con chó đã chết của mình, “Tết Canh Tý tao đi tìm buồn ở biển. Mày đau nằm liệt ở góc nhà…”. Đứa trẻ thích bài thơ này, và cứ nghĩ ông bạn già đi biển chỉ vì không muốn nhìn thấy con vật gắn bó với mình đau đớn lìa đời.

Nhưng hóa ra, năm nào ông cũng đi, lúc thì Nha Trang, Vũng Tàu, khi thì Mũi Né, Phú Quốc… Sáng mồng Một, ông đóng cửa, khép rào và làm một chuyến đi tới mênh mông. Đứa trẻ hỏi, “rồi chú làm sao?”. Ông già cười, “châm một bình trà ngồi uống ngó biển chơi”.

Ở đó, ông cũng một mình như lâu nay sống một mình trong căn nhà rộng và sân vườn rộng. Cái sự một mình này ông không giải thích với ai. Ông yêu vẫn yêu nhưng một mình thì vẫn một mình. Và trong sáu ngày đầu tiên của một năm, quãng thời gian người ta sum họp, đoàn viên, ông lại ngồi chơi vơi trước biển, “hồi trẻ ở rừng hoài, mắc chán rồi”, cái lý do đơn giản này che giấu một điều đơn giản khác, ông sợ hãi cái không khí Tết, khi mà sự gặp gỡ, sự trở về của mỗi người đều soi chiếu, nhắc nhớ nỗi cô đơn, xa vắng con người.

Đứa trẻ dĩ nhiên đoán được, nó tợp ngụm café, ngồi ngẫm ngợi, bỗng nhớ tới ông già khác, cũng là bạn thiết của ông bạn này. Cũng một đặc trưng cho mẫu người sợ hãi Tết, năm nào cũng đưa ổ khóa cho hàng xóm khóa cửa ngoài giùm, rồi trốn ru rú trong nhà, vật vờ như một hồn ma. Ông chỉ đặt bốn cái ghế ở phòng khách của mình, như một quy định ngầm, đoàn nào kéo tới năm bảy người, ông tái tê vì khó chịu. Càng khó chịu hơn khi mình lui cui bày biện một lúc thì khách đứng lên ra về, để lại mấy đĩa bánh mứt chưa ai chạm vào, những tách trà chưa ai ghé môi. Thôi, đóng cửa cho khỏe.

Và trong căn nhà gỗ thanh vắng, ông già cũng làm cuộc hành trình đi tới biển cô đơn, theo kiểu của ông. Đứa trẻ không ngạc nhiên với cách ứng xử hơi lập dị đó, khi một ngày nó nhận ra càng ồn ào lễ hội người ta càng cô đơn, càng đông đúc chung quanh ta càng đơn độc, bởi có những tâm hồn không ai chạm thấu được.

Đứa trẻ chỉ buồn cười, chơi với hai ông già, một ở Sài Gòn, một miền tây, gặp ông này nghe nhắc ông kia, và ngược lại. Như sáng nay, trong lúc nắng lên cao, ông già lại hỏi thăm bạn mình có khỏe, đứa trẻ vọt miệng nói luôn, như bắt lại một ý nghĩ bất chợt, sợ nó tan đi mất, “sao chú không xuống ông Chín chơi, ở với ông Chín, Tết này…”.

Ý tưởng của đứa trẻ không phải sáng tạo gì cho lắm, nhưng làm ông già ngỡ ngàng, ờ, tại sao không? Bọn ông sẽ vẫn đóng cửa, trốn trong nhà, pha bình trà quạu, ngồi nói vài câu chuyện phiếm, ngồi cười người đời đang chạy rần rần ngoài kia, không hiểu sao chỉ có được mấy ngày nghỉ, họ không chịu khép cửa lại, để âu yếm yêu thương mà cứ phải tất tả ngoài đường. Hoặc vả, bọn ông chỉ uống trà, không cần nói gì hết, chỉ ngồi đó nghe tiếng sóng của biển cô đơn vỗ rất xa rồi.

Ông già lẳng lặng đặt một vé máy bay. Ông không nhắn gì cho bạn, vì muốn tạo bất ngờ. Mồng Một ông đặt chân lên cái thềm nhà treo lủng lẳng mấy giò lan. Ông gọi cửa. Không có ai. Ông dựa vali ngồi chờ đến trưa, người hàng xóm ngang qua kêu lên, “Ông Chín về quê rồi, hết Tết mới ra”. Ông gần ngồi chèm bẹp, và bỗng dưng thấy biển xanh ngằn ngặt trước mặt mình. Chưa bao giờ ông thấy biển mênh mông, sâu thẳm như vậy, ông lần túi lấy thuốc hút, điện thoại chạm khẽ vào tay. Hy vọng lóe lên rồi lại tắt ngay, bạn chủ trương sống giản tiện hết mức, ghét cái đồ công nghệ mới này, bạn không xài. Ông bỗng nhớ đứa trẻ, cũng sống đâu đó ở thành phố này.

Thời điểm đó, đứa trẻ hoàn toàn rảnh rỗi, thanh thản nằm nghe nhạc, xem phim. Nó hoàn toàn không hay ông bạn già đã lần theo nét vẽ bâng quơ của nó để đến… một biển khác. Nó tắt điện thoại, đó là cách nó tuyệt giao với thế giới này, như bạn bè vẫn thường làm, theo kiểu của họ, người đi núi, người tìm biển, người khóa trái ngoài… Đứa trẻ hoàn toàn không biết ở hiên nhà người, trên đất người, ông bạn già của nó bơ vơ ngồi lau đôi kính ướt. Ông không biết tìm bạn mình ở nơi nào, vì không biết quê quán, không biết bạn đến từ đâu.

Và ở nơi nào đó mà người ta gọi là quê, cũng có một ông già khác, treo võng ngoài bìa vườn, chờ ngày qua, chờ cho hết cuộc hội hè đình đám, chờ cho qua hết cuộc nhắc nhớ sự cô đơn.

Họ sống với biển của mình lâu tới mức, lúc cần tìm người, họ hoàn toàn mất dấu tích của nhau.

Hoàng tử bé

Điểu ấy chẳng làm được tôi ngạc nhiên nhiều lắm. Tôi vẫn biết ngoài các hành tinh lớn như Trái Đất, Sao Kim, Sao Hỏa, Sao Thủy, mà người ta đặt tên cho, có hàng trăm ngôi sao khác, đôi khi bé đến nỗi người ta lấy kính nhìn xa ra soi cũng khó thấy. Khi một nhà thiên văn khám phá ra một trong bọn chúng, nhà thiên văn ấy cho nó một con số. Ví dụ ông gọi nó là “thiên thạch 3251”.

Tôi có những lí do chính đáng để tin rằng cái hành tinh của cậu hoàng tử, từ đó cậu đến đây, là thiên thạch B.612. Thiên thạch đó chỉ được trông thấy có một lần trong kính nhìn xa, năm 1909, bởi một nhà thiên văn Thổ. Ông ta liền lí giải ồn ào về sự khám phá của mình tại một hội nghị quốc tế về Thiên văn. Nhưng do cách ăn mặc của ông ta, chẳng ai tin điều ông ta nói. Người lớn là thế mà! May mắn cho thiên thạch B.612, một nhà độc tài Thổ buộc nhân dân Thổ phải mặc quần áo người Âu, ai không tuân theo sẽ bị tội chết.

Nhà thiên văn làm lại cuộc trình bày năm 1920, trong một bộ quần áo rất lịch sự. Và lần này, tất cả mọi người đồng ý với ông ta. Nếu tôi kể với các bạn tỉ mỉ về thiên thạch B.612, và nếu tôi rỉ tai với các bạn về con số của nó, ấy là tại các người lớn. Các người lớn thích chữ số. Khi bạn nói chuyện với họ về một người bạn mới, không bao giờ họ hỏi bạn về cái chính đâu. Họ không bao giờ hỏi: “Giọng nói hắn ta thế nào ? Hắn ta thích chơi trò gì ? Hắn ta có tập sưu tầm bươm bướm không?” Họ chỉ hỏi bạn: “Hắn ta bao nhiêu tuổi? Hắn ta có mấy anh em? Hắn ta bao nhiêu cân? Bố hắn ta lương bao nhiêu?” Thế. Sau đó, họ cho vậy là họ hiểu hắn ta rồi. Nếu bạn nói với những người lớn: ” Tôi có thấy một cái nhà bằng gạch màu hồng, với hoa phong lữ trên cửa sổ, và chim bồ câu trên mái…” họ chẳng làm thế nào hình dung nổi nhà ấy như thế nào đâu. Phải nói với họ: “Tôi có thấy một cái nhà mười vạn đồng”. Họ sẽ kêu lên ngay: “

– Ôi, thật là đẹp!”.
Như vậy đó, nếu các bạn bảo họ: “Cậu hoàng tử là có thật, chứng cớ là cậu ta rất đẹp, cậu ta cười và cậu ta thích có một con cừu. Khi người ta thích có một con cừu, thế là có người ấy chứ!” Họ sẽ nhún vai và cho bạn là trẻ con!

Nhưng nếu bạn bảo họ: “Cái hành tinh từ đó cậu ấy đi đến đây là thiên thạch B.612”, thế là họ nghe ra ngay, và thôi không phá quấy bạn với các câu hỏi của họ nữa. Họ là như thế! Không nên giận họ. Trẻ con phải hết sức rộng lượng đối với người lớn.

Vladimir Nabokov

…Có những khoảnh khắc thế này, khi tất thảy trở nên kỳ quái, sâu không đáy, khi dường như sống mới đáng sợ làm sao và chết lại còn đáng sợ hơn. Và bỗng dưng, trong lúc đi vùn vụt như thế trong thành phố ban đêm, ta nhìn qua nước mắt vào những ngọn đèn và bắt được trong chúng một hồi ức hạnh phúc chói lòa tuyệt đẹp, — một gương mặt phụ nữ, nổi lên lại sau nhiều năm quên lãng trên đường đời, — bỗng dưng, trong lúc đi vùn vụt và phát điên lên như vậy, một khách qua đường lễ phép chặn bước chân ta lại để hỏi, làm sao đi đến con phố nào đó — bằng một giọng nói bình thường, nhưng không bao giờ ta còn được nghe lại nữa.

Vladimir Nabokov

Nabokov có nhiều đoạn rất hay, khi đọc xong chúng ta cảm thấy cái đẹp của sự cô đơn nhiều lắm.

Anh lại chạy trên đường mòn dọc theo những bụi trăn. Anh cảm thấy mình được gột rửa trong nỗi buồn kẻ khác, rạng rỡ bằng nước mắt kẻ khác. Đó là cảm giác hạnh phúc, và từ dạo ấy anh chỉ thỉnh thoảng mới được nếm trải nó dưới dạng cái cây cong, chiếc găng rách, con mắt ngựa. Cảm giác ấy hạnh phúc do nó tuôn chảy hài hòa. Nó hạnh phúc như mọi chuyển động, mọi bức xạ. Anh từng bị đập tan thành triệu triệu sinh thể và vật thể, hôm nay anh hợp lại thành một, ngày mai anh lại bị đập tan ra lần nữa. Và mọi thứ trên đời này luân chuyển như vậy. Hôm ấy anh ở trên đỉnh sóng, biết rằng mọi thứ quanh anh — những nốt nhạc của cùng một sự hài hòa, biết — một cách bí mật — các thanh âm tụ hợp trong khoảnh khắc đã nảy sinh ra sao, phải được giải quyết thế nào, và hợp âm mới nào sẽ được gọi lên từ từng tờ nhạc bay tung. Trong sự hài hòa không thể có tính ngẫu nhiên. Nhạc cảm lòng anh biết hết, hiểu hết mọi điều.

Và Nabokov cũng rất tinh tế

— Anh biết em đã quyết định gì không? Này nhé. Em không thể sống thiếu anh. Em sẽ nói với anh ấy như vậy. Anh ấy sẽ cho em li dị ngay. Và khi ấy chúng mình có thể, xem nào, vào mùa thu…
Anh ngắt lời em bằng sự im lặng của mình. Vết nắng trượt từ váy em xuống cát: do em hơi dịch người đi.
Anh có thể nói gì với em? Tự do? Ngục tù? Không đủ yêu em? Không phải thế.
Một khoảnh khắc trôi qua; trong khoảnh khắc ấy, trên trần gian xảy ra nhiều chuyện: đâu đó có con tàu khổng lồ chìm xuống đáy, người ta tuyên chiến, một thiên tài được sinh ra. Khoảnh khắc ấy đã trôi qua.

Thanh âm
Vladimir Nabokov

Điện ảnh có thế mạnh đặc biệt về âm thanh, ánh sáng, diễn xuất, nhưng văn chương lại có thế mạnh đặc biệt về nhịp điệu và ngôn ngữ.
Nabokov luôn nhấn mạnh rằng văn chương cực kỳ cần chi tiết, các chi tiết thần thánh. Nên các bạn đọc văn chương hãy chú ý tối đa đến chi tiết.
Trong Gatsby vĩ đại có một chi tiết rất nhỏ, nhưng thường bị dịch sai, làm câu văn ngớ ngẩn, dù có thể độc giả không nhận ra.

Khi một cô gái trong buổi tiệc nói rằng có lần cô ấy làm rách váy, thế là Gatsby gửi cho một chiếc váy hàng hiệu mới, nhưng nó “but it was too big in the bust and had to be altered.” Nghĩ là quá rộng ở ngực và phải sửa. Bản Việt Nam dịch là nó quá rộng bụng nên phải sửa. (Tôi định mặc tối nay nhưng nó rộng bụng, phải sửa lại.)

Các bạn có thấy gì khác biệt không?

Khi người đàn ông mua váy cho gái mà mua rộng ở ngực thực ra là một lời khen ngấm ngầm, ý nói tôi đánh giá cô cao hơn, tôi hơi nhầm một tí thôi… Và dù phải sửa váy nhưng cô gái rất vui. (Vì anh ấy nghĩ mình có ngực to).
Sự tinh tế làm nên các tác giả lớn, dù sự tinh tế đó không phải ai cũng hiểu.
Sửa thành rộng bụng thì thôi còn gì để nói, ngang với chửi gái! Đúng là… nhà quê.

Thật tiếc

Anh còn loay hoay với bút sách, vẩn vơ bên chiếc ghế mới đóng, em với lấy điếu thuốc, hút một hơi dài, em ngả nghiêng, với lấy quyển sách, nhưng mắt em đưa mắt đi thật xa, mơ màng bên những cây bàng đối diện, mắt buồn không chớp. Bỗng, em hỏi một câu vẩn vơ, dù em biết rõ câu trả lời.

-Anh chấp nhận cuộc sống như này thật sao

-Ý em là sao

-Tại sao anh lại thỏa hiệp với họ, những kẻ ngu ngốc bên ngoài kia, anh chỉ cười mà không nói gì. Tại sao, trước đây anh sẽ càm ràm cả ngày cơ mà

-Anh không thỏa hiệp, em tôi, anh tha thứ cho họ

-Anh bắt đầu giống mấy ông triết gia nói nhảm

-Sau này em sẽ hiểu, mà đó đâu phải nơi cho em, rượu bia thâu đêm cùng ánh đèn chớp nháy.

Em tôi hút một hơi thuốc dài nữa, thả làn khói nhẹ qua tay, khói bay lên không trung, loanh quanh một hồi rồi biến mất, mùi marlboro trắng vẫn nhẹ nhàng nhưng khét cổ như câu trả lời của em

-Ông bà già không hiểu em, gia đình em là một nơi lặng lẽ

Tôi không nói gì sau câu nói đó, với điếu thuốc lá, dù đã bỏ lâu, nhưng trong một vài tình huống, một điếu thuốc sẽ xoa dịu bớt tâm trí mọi người khỏi cái mớ lằng nhằng cuộc đời vẽ ra.

Tôi biết em đã lâu, bố mẹ em như những con thiêu thân, và em cũng vậy. Bố em bán hàng cấm, dựng được một tiệm cầm đồ, giờ chỉ ngồi chỉ tay và đàn em ông làm. Mẹ em là một con nghiện cờ bạc, bà là chủ sòng của một vài khu vực cờ bạc bịp, dù có lằng nhằng lao lý, nhưng cũng không động được đến họ, họ đều có thí mạng dưới họ. Em tôi là học sinh giỏi cấp 2, đến cấp 3, em nhận thấy được sự tẻ nhạt cuộc sống và biết mùi tình ái, lớp 11 bỏ học vì có thai, bố em đánh bạn trai em suýt chết và cấm tiệt 2 đứa đến với nhau. Em đã tìm mọi cách làm đau bản thân, nhưng để rồi, xa ngã vào những ngày hoan lạc, mặc kệ trời đất. Tôi gặp em vào một ngày nắng nhạt, em ngủ bên bốt điện cao thế, áo hai dây xộc xệch, đôi cao gót gãy một bên chân. Tôi gọi em dậy và đưa em đi ăn, em không muốn nói. Rồi đến một ngày nào đó, em tìm thấy tôi trong một pub buồn tênh đêm Hà Nội. Tôi và em ngồi kể nể chuyện đời cùng nhau bên ly abshine bập bùng lửa. Tôi và em rõ nhau từ đêm đó. Đến 5h sáng Hà Nội, tôi đưa em đi một vòng Hồ Gươm, hít mùi khí trời còn thoang thoảng hương hoa cúc, ăn trứng vịt lộn còn nóng hổi, và tôi bảo em,

-Hãy tận hưởng thế giới này như cách thế giới này tận hưởng em.

Em lặng đi không nói. Em tôi không buồn giữa đêm từ lúc đó.

Một ngày, em gọi tôi bảo, anh đón em về được không. Đồng hồ điểm 3h sáng, tôi đi giữa phố Hàng Bông, lòng quay mòng mòng vì em, em tôi sỉn rượu bên gốc cây bàng trước bar. Tôi đưa em về nhà, và em ngủ một mạch đến sáng. Em tỉnh dậy và ngồi lặng im và hút thuốc.

-Em phải về, giờ đã quá trưa, Em đi từ sáng 2 hôm trước. Em về không bố mẹ em đi tìm

-Anh muốn nói với em điều gì đó, nhưng để anh đưa em về.

Tôi dắt xe ra trước cửa, em tôi ngồi lên sau xe. Đầu tựa vai tôi, vẻ mệt mỏi. Tôi để em nghỉ ngơi vì biết em tôi còn choáng váng bởi rượu mạnh và chất kích thích.
Đi nửa đường tôi nói.

-Thật buồn nhỉ

-Buồn việc gì anh

-Em có lẽ sẽ là một người khác

Em tôi không nói. Chúng tôi lặng im suốt con đường về nhà em.
2 ngày nữa là đúng đám giỗ, tôi chở em qua quán ăn đêm, trước tôi với em hay ngồi đó, ăn bát cháo nóng cùng tía tô cho em tan hơi rượu. 2 ngày nữa là giỗ em

Những ngày bão nổi

Hôm nay, một ngày nắng đẹp, sau cơn bão gầm thét hôm qua, trời lại trong xanh và tỏa nắng. Tôi ngồi lại bậu cửa, nhiều điều suy nghĩ vẩn vơ và đích thực. Dĩ nhiên không thể thiếu, không thể thiếu nhạc của dsk, nếu nói theo cách của những người mộ đạo thì, ông cùng nhạc của ông đã giúp tôi lớn lên.
Những ngày qua, bão nổi trong tôi và trong mọi thứ bên cạnh tôi. Tôi nổi nóng, rồi tôi cười nói, tôi im lặng, rồi lại càm ràm. Tôi suy nghĩ rồi bỏ qua, nâng lên rồi lại đặt xuống. Tôi muốn về nhà nhưng lại đi ra chỗ khác, rồi khi trở về chỗ ở tôi vẫn cố gắng thoát ra. Tôi định nói gì đó, rồi lại thôi, tôi định làm gì đó, rồi lại thôi. Và rồi thì, cái quyết định đêm thứ 6 đó đã gần như làm tôi hiểu về các quyết định của người đàn ông. Tôi giải quyết bằng bạo lực như một cách tất yếu, dĩ nhiên em, càm ràm và mắng mỏ, nhưng tôi vẫn không nghĩ ra những cách để hiểu lý do của em hay cách em cố nói tôi hiểu, nhưng suy cho cùng, rồi thì em vẫn nghĩ tốt cho tôi. Tôi nghĩ vậy là đủ. Để rồi ngày thứ 7. Ngày thứ 7 đó, thường, ngày thứ 7 của tôi là một ngày để tinh tế, nhận ra một cái gì đó hoặc để lòng mình một mình với những cảm xúc bản năng của con người. Nhưng đêm qua tôi chọn một bộ phim, đọc một quyển sách, pha một ấm trà rồi kê chân cao nghe tiếng mưa, và thanh thản như một kẻ già gần đất xa trời. Tôi thấy lòng mình lặng thinh và thanh thản. Tôi thấy lòng mình tự do

Hà Nội – 11-4-2021

Dejavu – Hứa Sẽ Hoàn Thành

Tôi đứng ngoài căn nhà trước mặt, tờ giấy nhăn trong túi áo, ngơ ngác nhìn quanh, đút giấy vào túi, rồi lại mở ra như để chắc chắn rằng địa chỉ này đúng. Tôi nhìn bức ảnh chụp căn nhà trên tờ giấy, rồi đi ra tận ngoài để so sánh kỹ hơn, và giờ thì tôi chắc rằng nó đúng. Vậy dòng chữ bên dưới bức ảnh là gì đây,….. Tôi đang đứng trước cái gì đó to lớn hơn hết tôi nghĩ ra, trong tôi tự nhận thấy điều đó. ráo rác nhìn một hồi nữa để tìm những vật chuyển động qua trước mắt, nhưng không thể, xung quanh chỉ có ánh đèn và ánh đèn. Không khí im lặng thấm qua hơi thở. Khi chắc chắn không còn vật gì có thể chuyển động. Tôi mới bước vào căn nhà đó ……………………….

Lệ Đá – Thật ra có đến 5 lời

Trong âm nhạc, các ca khúc “Nhạc phổ thơ” rất phổ biến và đóng một vai trò quan trọng trong nền âm nhạc Việt Nam. Thông thường các nhạc sĩ đồng cảm với những vần thơ, từ đó phổ nhạc viết ra những ca khúc “Nhạc phổ thơ”, ở chiều ngược lại “thơ phổ nhạc” hay là đặt lời cho một bản nhạc ít xuất hiện hơn, bởi có lẽ sẽ khó để cảm nhận được những gì tác giả gửi gắm qua một bản nhạc không lời, chính vì vậy không có nhiều bài “thơ phổ nhạc”, Lệ đá là một trong số ít các ca khúc đó.

Lệ đá vốn là một bản nhạc không tên được nhạc sĩ Trần Trịnh sáng tác vào giữa thập niên 60 của thế kỷ trước, khi đó Trần Trịnh còn là một nhạc sĩ mới, chưa có nhiều tiếng tăm trong làn tân nhạc thời bấy giờ.

Cơ duyên đã đưa nhạc sĩ Trần Trịnh đến với nhà thơ Hà Huyền Chi, để rồi “Lệ đá” ra đời khi nhà thơ Hà Huyền Chi đã hòa được cảm xúc thơ của mình vào giai điệu thiết tha, dịu nhẹ của nhạc sĩ Trần Trịnh.

Một điều thú vị là, nhà thơ Hà Huyền Chi không chỉ đặt một lời cho nhạc phẩm mà viết tận 5 lời. Lời nào cũng rất thơ và đầy cảm xúc, nhưng có lẽ nổi tiếng hơn cả là chính là lời đầu tiên mà bây giờ chúng ta thường nghe.

Lời bài hát Lệ Đá 1

Hỏi đá xanh rêu
Bao nhiêu tuổi đời 
Hỏi gió phiêu du
Qua bao đỉnh trời 
Hỏi những đêm sâu
Dèn vàng héo hắt
Ái ân, bây giờ là nước mắt 
Cuối hồn một thoáng nhớ mong manh 
Thuở ấy tôi như con chim lạc đàn 
 Xoải cánh cô đơn bay trong chiều vàng 
Và ước mơ sao trời đừng bão tố 
Để yêu thương càng nhiều gắn bó 
Tháng ngày là men say nguồn thơ
Tình yêu… đã vỗ… cánh rồi 
Là hoa.. rót mật… cho đời 
Chắt chiu… kỷ niệm… dĩ vãng 
Em nhớ gì… không em ơi
Mầu áo thiên thanh thơ ngây ngày nào 
Chìm khuất trong mưa… mưa bay rạt rào 
Đọc lá thư xưa…một trời luyến tiếc 
Nhớ môi em…và mầu mắt biếc 
Suối hẹn hò… trăng xanh đầu non

Đôi dòng của nhà thơ viết Lệ Đá

Cái ma kiếp của một bài ca được yêu chuộng thường yểu tử, và xuống cấp. Nhưng Lệ Đá thì không. Nó may mắn thoát khỏi định số ước lệ ấý. Vào những năm 67, 68 nhạc phẩm “Lệ Đá” được cất tiếng thường xuyên hầu như ở khắp mọi sinh hoạt văn nghệ mà thời kỳ này nhạc Trịnh Công Sơn đang được mọi người hâm mộ. Lệ Đá góp mặt hàng đêm ở các phòng trà, tiệm nhảy. Lệ Đá vào khuê phòng, ra máy nước. Rồi quán cà phê cũng Lệ Đá, phim ảnh cũng Lệ Đá với tiếng hát Khánh Ly, phim do Thanh Nga, Đoàn Châu Mậu diễn xuất, và Bùi Sơn Duân đạo diễn.

May sao, Lệ Đá vẫn chưa trở thành nhạc sến, nhạc đứng đường. May sao, tôi vẫn được yên thân, bởi vẫn giữ kín cơ duyên “nhảy dù” vào nghề viết lời nhạc. Để mọi người đều hiểu lầm rằng Trần Trịnh phổ thơ tôi.

Khi ấy tôi viết thêm lời 3 cho Lệ Đá khi đi công tác ở Sóc Trăng, Cà Mau. Nơi Rừng Mắm của Bình Nguyên Lộc với muỗi mòng dễ nể. Nhà văn Bình Nguyên Lộc dọa, chỉ cần quơ tay một cái là đã túm được cả chục con muỗí. Bạn bè hăm, trâu bò còn phải ngủ trong mùng. Khách sạn tỉnh lẻ không khá gì hơn mấy quán trọ trong phim Anh Hùng Xạ Điêu, Cô Gái Đồ Long. Thực khách vừa nhâm nhi, vừa quơ chưởng, đuổi muỗí. Mới chập tối, tôi đã chui vô chiếc mùng thố. Và buồn tình tôi viết lời Lệ Đá 3

Chiều 27/4/1975 tôi còn cái hẹn với người tình Khánh Liên ở Thị Nghè. Tình hình thời cuộc lúc đó biến chuyển cực nhanh, nên tôi không đến được với Khánh Liên, tôi đã không thể thu xếp để tới chỗ hẹn, nói lời từ giã cuối cùng với nàng. Nỗi buồn đeo cứng lấy tôi. Khi ngồi nín thở dưới hầm, khi ráng ngoi nhìn mặt sông Lòng Tảo lần cuốí. Nhìn mặt sông cuồn cuộn đau, khi thấp thoáng nghĩ ngàn dặm sẽ chia lìa cùng Sài Gòn, quê hương và người tình Khánh Liên…

Nên bài lời 4 này khởi viết từ tháng 4 và được hoàn chỉnh vào tháng 7/1975.

Không rõ điều gì đã khiến tôi không xa rời được cái giao hưởng của Lệ Đá 1, 2, khiến đôi khi, khúc này hầu như là một phó bản, mô phỏng của khúc trước. Nó dẫn tôi quanh quẩn trong trình tự ấy không rời.

Có lẽ tôi là một kẻ chung tình mang trái tim phản trắc. Năm 1992, tôi đắm hồn vào một tình yêu mới. Nguyễn Tà Cúc – Nguyệt Lãng – Ác Bà Bà, là Ba đại ác nhân và mỹ nhân, đã cho tôi hạnh phúc và hành tôi điêu đứng không cùng.

Nguyễn Tà Cúc thì không thể nào không… tà cho được. Nàng đến với tôi như một tiểu muội thứ thiệt. Rồi tôi đổ đốn đâm ra yêu tiểu muội, qua một phân thân của nàng là Nguyệt Lãng (sóng trăng).

“Tháng Một Buồn” in năm 1993, là thi tập ghi dấu tình tôi với nàng. Rồi Nguyệt Lãng lại phân thân, lần nữa. Từ cây bút hoa bướm hiệu đoàn, Ác Bà Bà soi kính chiếu yêu vào đời sống, văn chương. Và chứng tỏ năng khiếu trong lãnh vực phê bình văn học, và đàn hạch tư cách bất chính của nhà văn. Trong và ngoài văn chương.

Tôi xa nàng từ 1993. Dù cái tình của chúng tôi vẫn là ngàn đời chẳng thể chia xa. Và từ tháng Mười 1992 đến tháng Chạp 2002, đã là hơn 10 năm vèo qua trong thân tình, chúng tôi vẫn chưa hề giáp mặt nhau, dù chỉ một lần. Dù tôi đến Cali nhiều bận. Rất nhiều bận. Không gặp, phải chăng là cố gắng phi thường của chúng tôí. Để giữ cho tình mãi đẹp. Cho dù, những năm sau này, tiểu muội của tôi đã trong tình trạng không còn ràng buộc bởi hôn nhân.

Với giai điệu buồn, tha thiết nhiều hoài niệm nhưng không hề bi lụy, “Lệ đá ” vẫn luôn giữ một vị trí đặc biệt trong lòng người yêu nhạc. Dù đã ra đời hơn 40 năm, nhưng “Lệ Đá” vẫn được nhiều ca sĩ trẻ chọn để biểu diễn rất thành công.

Những Người Khốn Khổ

Đây là một đoạn hay, tôi coi nó là hay nhất giữa tác phẩm cồng kềnh những đoạn hay này của ông, Nhưng thật tiếc người ta chỉ chú trọng câu chuyện chính, mà không chú trọng những câu chuyện nhỏ. Thật tiếc khi đi đường, người ta chỉ đi thôi, chẳng thèm liếc bông hoa hay vấn vương con bướm một lần.

Đoạn ông giám mục với người cách mạng, 2 người to lớn như nhau, thậm chí người cách mạng có phần hơn

Trích đoạn

Đó là một túp lều thấp, nghèo nàn, bé nhỏ mà sạch sẽ, mặt trước có một giàn nho. Trước cửa, trong chiếc ghế xe cũ kỹ, loại ghế nông dân, một ông già tóc bạc đang ngồi mỉm cười với mặt trời. Bên cạnh ông già có một chú mục đồng. Nó đưa cho ông một bát sữa. Trong lúc ông Giám Mục lặng lẽ nhìn, ông già nói với chú bé:

– Cảm ơn chú, ta không cần gì nữa hết.

Ông không cười với mặt trời nữa, quay sang mỉm cười với chú bé. Ông Giám Mục bước tới. Nghe tiếng động, ông già quay lại và mặt ông tỏ vẻ ngạc nhiên, với cái lượng ngạc nhiên còn lại sau một cuộc đời dằng dặc. Ông nói:

– Từ khi tôi về đây đến nay, lần này là lần đầu tiên có người đến nhà tôi.

Thưa ông, ông là ai?

Ông Giám Mục đáp:

– Tôi là Bienvenu Myriel.

– Bienvenu Myriel! Tôi đã nghe nói đến tên ấy. Ông có phải là người mà dân chúng gọi là Đức Cha Bienvenu đó chăng?

– Chính tôi.

Ông già cười nụ:

– Thế thì ông là Giám Mục của tôi?

– Hình như thế.

– Mời ông vào.

Người Cách Mạng đưa tay, nhưng ông Giám Mục không bắt. Ông chỉ nói:

– Tôi lấy làm sung sướng nhận thấy rằng người ta đã dối tôi. Ông không ốm đau gì thì phải.

– Tôi sắp khỏi rồi. – Ông già nghĩ một tí rồi nói tiếp – Ba tiếng đồng hồ nữa thì tôi chết.

Ông lại nói:

Tôi cũng hơi biết nghề làm thuốc ít nhiều. Tôi biết người thế nào là sắp chết. Hôm qua tôi chỉ thấy lạnh ở hai bàn chân; sáng nay lạnh lên đến gối; bây giờ tôi cảm thấy nó lên đến thắt lưng rồi; khi nó lên đến tim thì tôi ngừng sống. Mặt trời đẹp quá phải không ông? Tôi bảo đẩy tôi ra đây để nhìn vạn vật một lần cuối. Ông cứ nói chuyện đi, nghe chuyện không làm cho tôi mệt đâu. Ông đến xem một con người sắp chết là tốt đấy. Lúc chết mà có một người làm chứng cho mình thì cũng hay! Ai cũng có những tật riêng. Tôi, thì tôi muốn gắng đến sáng hãy đi, nhưng xem ra chỉ còn được sống ba tiếng nữa là cùng. Tôi sẽ nhắm mắt vào lúc đêm tối. Nhưng cần quái gì! Chết là một chuyện đơn giản, cần gì phải có ánh bình minh mới chết được! Đành thế. Tôi sẽ nhắm mắt dưới ánh sao.

Ông già quay về phía chú mục đồng:

– Con đi ngủ đi con. Con đã thức đêm hôm qua, hôm nay con phải mệt.

Chú bé bước vào trong lều.

Ông già nhìn theo nó, nói một mình:

– Khi nó ngủ thì tôi chết. Cũng là giấc ngủ cả, có thể ở bên cạnh nhau lắm chứ!

Ông Giám Mục không cảm động như ở mọi trường hợp khác. Ông cả thấy không có Chúa trong cái lối chết này. Vả lại cũng cần phải nói hết, nói cả những mâu thuẫn vụn vặt trong những tâm hồn vĩ đại! Ông Giám Mục hơi phật ý vì không được gọi là Đức Cha, tuy cũng có khi ông đem tiếng Ông Lớn ra cười cợt. Ông toan gọi người Cách Mạng già là: Công dân. Ông thoáng có ý muốn sỗ sàng cộc lốc, như nhiều thầy thuốc và cố đạo, tuy ông không quen cái lối ấy. Chung quy, con người ấy, tay Cách Mạng ấy, dân biểu ấy, đã một thời lẫy lừng quyền thế; cho nên, có lẽ đầu tiên trong đời, ông Giám Mục muốn có thái độ nghiêm khắc.

Người Cách Mạng thì đối với ông chân tình và khiêm nhượng; trong thái độ của ông, người ta cảm thấy vẻ khiêm tốn của một người biết mình sắp trở thành cát bụi. Ông Giám Mục thường tránh tọc mạch vì ông cho tọc mạch cũng gần như xúc phạm người ta. Nhưng ông không thể không chú ý quan sát Người Cách Mạng. Ông chú ý nhưng không phải vì có cảm tình cho nên đối với một người nào khác mà ông chú ý như thế tất lương tâm ông sẽ cắn rứt. Nhưng một tên Cách Mạng theo ông thì còn luật lệ nào che chở cho, cả đến luật nhân ái nữa. Ông G. bình tĩnh, nửa thân trên vươn thẳng, giọng nói sang sảng. Ông thuộc về cái hạng ông già tám mươi cứng cáp làm các nhà sinh lý học kinh
ngạc. Cách Mạng đã có nhiều người như thế, những người cũng to lớn như thời đại. Nhìn ông, người ta cảm thấy đó là một con người đã qua trăm rèn nghìn luyện. Cử chỉ dáng điệu của ông là của con người khỏe mạnh, tuy ông sắp chết trong giây lát. Tia mắt trong sáng, giọng nói chắc nịch, cái nhún vai hùng mạnh của ông làm cho thần chết thất vọng, làm cho quỷ sứ bắt vong phải quay trở về vì ngỡ mình lầm cửa. Ông G. chết hình như là vì ông vui lòng muốn chết thôi. Trong cách hấp hối của ông, có sự chủ động. Chỉ có
chân ông là cứng đờ: U minh nắm ông ở đôi chân ấy. Hai bàn chân chết lạnh nhưng đầu vẫn sống một cách mãnh liệt, chói ngời ánh sáng. Trong giờ phút nghiêm trọng ấy, ông G. giống như ông vua trong chuyện cổ tích Đông Phương nọ, phần trên người là xương thịt, phần dưới là đá hoa. Ông Giám Mục ngồi lên phiến đá bên cạnh. Đoạn khai đề khá đột ngột, ông khen mà giọng như là khiển trách:

– Tôi mừng cho ông. Dẫu sao, ông đã không bỏ phiếu xử tử Hoàng Thượng.

Nhà Cách Mạng có vẻ như không để ý đến những gì chua chát ẩn đằng sau hai tiếng “dẫu sao”. Ông không cười nụ nữa. Ông trả lời:

– Ông chớ nên quá khen tôi. Tôi đã bỏ phiếu kết liễu bạo chúa.

Giọng nghiêm lạnh đối với giọng nghiêm khắc.

– Ý ông định nói gì? – Ông Giám Mục hỏi.

– Tôi muốn nói rằng con người có một bạo chúa: Đó là sự ngu dốt. Tôi đã bỏ phiếu kết liễu tên bạo chúa đó. Tên bạo chúa đó đã đẻ ra chế độ Quân Chủ. Quân Chủ là uy thế xây dựng trên sai trái, trí thức là uy thế xây dựng trên cái đúng, cái chân. Chỉ có trí thức mới xứng đáng điều khiển con người.

– Và lương tâm – ông Giám Mục thêm.

– Cũng là một. Lương tâm là cái lượng tri thức bẩm sinh ở mỗi chúng ta

Ông Giám Mục nghe luận điệu quá mới mẻ này thì hơi ngạc nhiên.

Nhà Cách Mạng nói tiếp:

– Còn việc giết Louis thứ XVI thì tôi bỏ phiếu chống. Tôi nghĩ rằng tôi không có quyền giết người. Nhưng tôi có nhiệm vụ tiêu diệt cái xấu. Tôi bỏ phiếu thủ tiêu bạo chúa, nghĩa là thủ tiêu chế độ mãi dâm đối với đàn bà, thủ tiêu chế độ nô lệ đối với đàn ông, thủ tiêu đêm tối đối với con trẻ. Biểu quyết cho chính thể Cộng Hòa, tôi đã biểu quyết cái đó. Tôi biểu quyết cho bác ái, cho đồng tâm, cho bình minh! Tôi góp sức đánh đổ các thành kiến và sai lầm. Thành kiến và sai lầm đổ xuống thì hào quang hiện lên. Chúng tôi đây là những người lật đổ thế giới cũ là một hũ chứa đau khổ, cái hũ ấy đổ úp lên nhân loại thì thành một bình chứa niềm vui trong lành.

– Trong lẫn đục.
– Ông nên gọi là niềm vui bị vẩn đục và ngày nay sau cái năm 1814 mà người ta gọi là sự hồi phục tai ngược của dĩ vãng, niềm vui tan biến. Than ôi! Công trình dang dở! Thật vậy, chúng tôi đả phá chế độ cũ trong việc làm nhưng chúng tôi không tiêu diệt được nó hoàn toàn trong tư tưởng. Tiêu diệt các tệ hại chưa đủ, phải thay đổi cả phong tục. Cái cối xay gió không còn, nhưng gió vẫn tồn tại.

– Các ông đã hủy phá tất cả. Hủy phá có thể có ích, nhưng tôi không tin sự phá hủy trong giận dữ.

– Thưa ông Giám Mục, công lý có lúc phải phẫn nộ và sự phẫn nộ của công lý là yếu tố của tiến hóa. Người ta muốn nói gì thì nói, mặc, Cách Mạng Pháp vẫn là bước tiến vĩ đại nhất của nhân loại từ khi Chúa Jésus Christ ra đời. Dang dở, đúng, nhưng mà tuyệt vời. Nó đã phát hiện tất cả những bài toán xã hội. Nó đã làm cho trí não con người dịu đi, Nó vỗ về, trấn tĩnh, soi sáng; nó dội lên mặt đất từng dòng suối văn minh. Nó là một điều hay. Cách Mạng Pháp là lễ tức vị của nhân loại.

Ông Giám Mục không thể không lẩm bẩm

– Thật vậy ư? Còn Năm 93!

Nhà Cách Mạng ngồi thẳng người lên với một vẻ nghiêm trang hầu như ảm đạm. Ông lấy hết hơi sức của một người sắp chết, thét lên:

– Ồ! Tôi biết mà! Năm 93! Phải đấy, tôi đợi ông nói lên cái tiếng ấy. Một đám mây mù vần vũ đằng đẵng một nghìn năm trăm năm. Thế rồi sau mười lăm thế kỷ nó bị đánh tan. Ông, ông muốn lên án tiếng sét đánh tan mây mù.

Ông Giám Mục cảm thấy mình có một chỗ yếu nào đó đã bị đánh trúng. Cố để không nao núng, ông đáp:

– Quan tòa nhân danh công lý mà nói, cố đạo vì nhân ái mà nói; nhân ái không gì khác là hình thái công lý tối cao. Sấm sét không nên đánh lầm. Ông nhìn đăm đăm vào mặt nhà Cách Mạng, hỏi tiếp:

– Thế Louis XVII?

– Louis XVII? Xem nào! Ông thương khóc ai? Thương khóc em bé vô tội à? Thế thì được. Tôi cũng thương khóc với ông. Hay là ông thương khóc hoàng tử Louis? Hãy để cho tôi xem lại. Đối với tôi, đứa bé em thằng Cartouche, một thằng bé vô tội bị buộc qua nách treo lên ở pháp trường cho đến chết, chỉ vì cái tội là em Cartouche, đứa bé ấy cũng đáng thương xót như đứa cháu vua Louis XV là một thằng bé vô tội bị hành hạ trong ngục Temple, vì cái tội ác duy nhất là cháu nội Louis XV.

– Thưa ông, tôi không thích người ta so sánh như thế.

– Cartouche? Louis XV? Ông kêu thiệt thòi cho Cartouche hay Louis
đấy?

Yên lặng trong giây lát. Ông Giám Mục gần như hối tiếc là mình đã trót đến đây, tuy nhiên ông lờ mờ cảm thấy mình nao núng, nao núng một cách khác thường. Nhà Cách Mạng lại nói:

– Ồ! Ông cố đạo không ưa nghe nói trắng sự thật. Nhưng Chúa Jésus Christ ngày trước lại ưa. Chúa cầm một cái roi đập bụi cho điện thờ. Cây roi chớp hào quang của Chúa nói sự thật lên không vị nể. Khi Chúa kêu: Để trẻ đến với ta. Chúa không phân biệt những đứa trẻ con. Chúa không ngần ngại ghép con của Barabbas với con của Hérode. Thưa ông, sự trong trắng tự nó đã là một chiếc mũ bình thiên, sự trong trắng không cần đến cái tước Điện Hạ. Sự trong trắng rách rưới cũng tuyệt vời cao quý như sự trong trắng khoác long bào.

Ông Giám Mục nói khẽ:

– Đúng thế!

– Tôi nhấn thêm nữa. Ông nhắc đến Louis XVII. Chúng ta hãy thống nhất với nhau. Chúng ta có khóc tất cả những người vô tội, những kẻ tử nạn, tất cả những trẻ em, bất kỳ là thường dân hay quý tộc không? Khóc thế thì tôi tham dự. Nhưng như thế thì phải đi ngược dòng lịch sử tận trước Năm 93, trước Louis XVII để bắt đầu thương xót. Tôi khóc con vua chúa với ông nếu như ông chịu khóc con dân nghèo với tôi.

– Tôi khóc tất cả những đứa bé ấy.

Ông G. la lớn:

– Đồng đều như nhau! Mà nếu cán cân cần phải nghiêng về một bên nào, tôi mong rằng nó sẽ nghiêng về bên dân chúng. Dân chúng đã chịu khổ lâu hơn.

Lại yên lặng. Rồi Người Cách Mạng cất tiếng trước. Ông chống khủy tay, nhỏm người lên, beo một chút thịt bên má như người ta thường làm một cách vô tình khi người ta hỏi cung hay là kết án. Cặp mắt tập trung tàn lực, ông chất vấn ông Giám Mục. Cuộc chất vấn thật là nảy lửa:

– Thật thế, thưa ông, dân chúng đau khổ đã lâu đời lắm rồi. Nhưng thôi, đó không phải là vấn đề. Tôi muốn hỏi ông, ông đến đây chất vấn tôi và nói chuyện Louis XVII để làm gì? Tôi không quen biết ông. Từ khi đến xứ này tôi luôn ở trong khu vườn nhỏ này, chỉ một mình, không bước chân ra ngoài, chẳng trông thấy ai ngoài chú bé giúp việc cho tôi đó. Tên tuổi ông, tôi có phong phanh nghe đến thật và tôi công nhận rằng những tiếng đồn về ông không đến nỗi xấu. Nhưng cái ấy cũng vị tất có nghĩa lý gì. Những người khôn khéo có bao nhiêu cách lấy lòng anh dân đen ngay thật! Nói đến đây mới nhớ rằng tôi không nghe tiếng xe của ông đến, có lẽ ông để xe ở ngoài khu rừng, ở chỗ rẽ chăng? Tôi nhắc lại là tôi không biết ông. Ông nói ông là Giám Mục, nhưng cái ấy cũng không làm cho tôi biết gì hơn về nhân phẩm của ông. Tóm lại, tôi nhắc lại câu hỏi của tôi: Ông là ai? Ông là một vị Giám Mục, tức là một bậc vương tước trong Giáo Hội, một khách lầu son gác tía, có gia huy, có lợi tức, có bổng lộc rất hậu. Tước Giám Mục thành Digne lĩnh mười lăm nghìn francs lương chính, mười nghìn francs lộc, tổng cộng hai vạn rưỡi. Ông có bồi bếp phục dịch, có quân hầu áo nâu, trên bàn ăn toàn là cao lương mỹ vị, thứ sáu thì xơi chim cuốc, cái hạng mũ áo nghênh ngang, đi xe ngày hội, có kẻ hầu ngựa nhân danh Chúa Jésus Christ đi chân đất! Ông là một vị trọng chức trong giáo hội. Bổng lộc, dinh thự, ngựa xe, kẻ hầu người hạ, mỹ vị cao lương, tất cả những thứ khoái lạc của cuộc sống, ông đều có như những vị trọng chức khác và ông cũng hưởng thụ như họ. Tốt lắm, nhưng các cái ấy nói nhiều hoặc chưa nói đủ. Nó không giúp tôi thấy sáng cái giá trị chính, cái giá trị thực chất của ông, là người có lẽ có tham vọng đến đây để dạy khôn cho tôi. Tôi đương nói chuyện với người nào đây? Ông là ai vậy?

Ông Giám Mục cúi đầu, đáp:

– Một con giun đất.

Nhà Cách Mạng lầm bầm:

– Hừ, giun đất đi xe tứ mã!

Bây giờ đến lượt Nhà Cách Mạng kiêu hãnh, mà ông Giám Mục thì nhún nhường. Ông Giám Mục dịu dàng nói luôn:

– Cũng được. Nhưng xin ông giải thích cho tôi điều này: Xe của tôi đỗ đằng sau lùm cây vài bước, bàn ăn của tôi có cao lương mỹ vị, có chim cuốc ngày Thứ Sáu, bổng lộc của tôi đến hai mươi lăm nghìn francs, tôi có dinh thự, có kẻ hầu người hạ, tại sao những thứ ấy lại chứng minh rằng lòng thương người không phải là một đức tốt, lượng bao dung không phải là một nghĩa vụ và Năm 93 không phải là đã quá tàn nhẫn?

Nhà Cách Mạng đưa tay qua trán như để xua đi một đám mây mù

– Trước khi trả lời ông, tôi tha thiết xin ông thứ lỗi cho tôi. Tôi vừa có lỗi. Ông vào nhà tôi, ông là khách. Tôi có bổn phận phải đối xử lịch sự với ông. Ông không thừa nhận ý kiến tôi, lẽ ra tôi chỉ cần bác bỏ các luận điểm của ông mà thôi. Sự giàu sang, hưởng thụ của ông là những ưu thế cho tôi trong cuộc tranh luận nhưng không dùng đến cái ưu thế ấy mới là lịch sự. Tôi hứa sẽ không dùng đến nữa.

– Xin cảm ơn ông.

Ông G. lại nói:

– Bây giờ thì chúng ta hãy trở lại cái việc ông yêu cầu tôi giải thích. Chúng ta đã dừng lại ở chỗ nào nhỉ? Ông đã nói thế nào? Rằng Năm 93 quá tàn nhẫn phải không?

– Tàn nhẫn, đúng. Việc Marat vỗ tay hoan nghênh cái máy chém, ông nghĩ thế nào? Ông nghĩ thế nào đối với việc Bossuet hát bài Tụng Chúa cho bọn lính đầu rồng chém chết tín đồ đạo Cải Cách?

Câu trả lời thật là độc địa, nó xỉa ngay vào đích như một mũi kiếm thép. Ông Giám Mục rùng mình. Ông không biết đánh trả thế nào, nhưng ông thấy phật ý vì cái cách nói về Bossuet. Những người sáng suốt nhất vẫn có những thần tượng của họ và khi luận lý của người khác xúc phạm đến những người họ sùng bái thì họ cảm thấy như đau. Nhà Cách Mạng bắt đầu thở dốc. Đàm suyễn của người hấp hối chen lấn vào những hơi thở cuối cùng làm cho lời nói bị đứt quãng. Nhưng nhìn vào cặp mắt người ta thấy tinh thần của ông hoàn toàn minh mẫn. Ông nói tiếp:

– Tôi còn muốn nói một đôi câu đây đó nữa. Nói chung Cách Mạng là một sự tự khẳng định vĩ đại của nhân loại; than ôi! 93 là một đòn trả miếng. Ông thấy 93 tàn nhẫn, nhưng còn tất cả thời kỳ Quân Chủ thì thế nào, thưa ông? Carrier là một tên tướng cướp, còn Montrevel thì ông gọi là gì? Fouquier Tinville là một thằng khốn, nhưng đối với Lamoignon Bâville, ông nghĩ thế nào? Maillard xấu xa, nhưng còn Sceaux Tavannes? Lão Duchêne hung tợn, thế thì ông định dùng tiếng gì để gọi lão Letellier? Jourdan “chặt đầu người” là một con quái vật, tuy thế hắn còn ít quái hơn là Hầu Tước Louvois. Ông ơi, tôi thương hại Marie Antoinette Đại Công Tước và Hoàng Hậu, nhưng tôi cũng thương người đàn bà khốn nạn theo đạo Cải Cách dưới triều vua Louis XIV kia. Năm 1685 người đàn bà có con đương bú ấy bị lột trần đến rốn, trói vào một cây trụ, con chị bị giữ lại cách xa ở trước mặt chị, vú chị ứ đầy sữa, tim chị ứ đầy đau thương. Đứa hài nhi xanh xao đói khát càng thấy vú càng kêu la giẫy chết. Tên đao phủ bảo với người đàn bà, người mẹ, người vú sữa ấy: “Bỏ đạo của mày đi!” Như thế là nó bắt chị hoặc bỏ con chết, hoặc bỏ tín ngưỡng. Dùng cái khổ hình của Tantale đối với một người mẹ như thế, theo ý ông, là thế nào? Thưa ông, ông nên nhớ rằng Cách Mạng Pháp có những lý lẽ của nó. Đời sau sẽ tha thứ cho cơn phẫn nộ của nó. Kết quả đem lại là một thế giới tốt đẹp hơn. Nó sát phạt ghê gớm nhưng kết quả là nhân loại được vỗ về an ủi. Tôi nói vắn tắt thôi. Tôi xin dừng, bởi
vì chân lý ở về phía tôi rõ rệt quá. Vả lại tôi thấy người tôi sắp chết rồi

Ông không nhìn ông Giám Mục nữa; ông kết thúc ý kiến bằng mấy lời bình tĩnh sau đây

– Những vùng vẫy thô bạo của tiến hóa là những cuộc Cách Mạng. Qua rồi, người ta nhìn thấy điều này: Là nhân loại bị giày vò nhưng nhân loại đã tiến lên. Nhà Cách Mạng không ngờ rằng mình vừa lần lượt hạ hết các đồn lũy trong tư tưởng ông Giám Mục. Tuy thế, Đức Cha Bienvenu cũng còn một vị trí cố thủ cuối cùng và từ vị trí ấy ông phóng ra một câu cũng nghiệt ngã như lúc ban đầu:
– Tiến hóa phải tin ở Chúa. Không thể làm điều lành mà không tín Chúa. Một người hướng đạo của nhân loại mà theo chủ nghĩa vô thần là một người hướng đạo hỏng. Vị dân biểu già không trả lời. Ông run run. Ông nhìn lên trời và một giọt lệ tụ dần trong khóe mắt. Khi giọt lệ đã đầy mắt, nó chảy xuống cái má trắng nhợt; ông nói khe khẽ, nói một mình, gần như bập bẹ, mắt đăm đăm vào cõi sâu thẳm xa xôi

– Lý tưởng ơi! Chỉ có mày là có thật!

Ông Giám Mục thấy trong người rung động một cách khó nói. Sau giây lát im lặng, ông già chỉ một ngón tay lên trời, nói:

– Có vô biên. Vô biên ở đấy. Nếu vô biên không có bản ngã, thì bản ngã đã là giới hạn của vô biên. Nhưng vô biên tồn tại. Như thế là nó có bản ngã. Bản ngã của vô biên là Chúa.

Ông già hấp hối nói mấy câu rất to tiếng, giọng rung lên vì ngây ngất say mê, y như thấy một người nào hiển hiện. Ông nói xong thì nhắm mắt lại. Ông đã gắng quá nên kiệt sức. Rõ ràng là trong giây phút ấy, ông đã sống hết cả mấy giờ còn lại của số mệnh ông. Những lời ông vừa nói kéo ông lại gần với Đấng ở thế giới bên kia. Giờ phút tối hậu đã đến.

Ông Giám Mục biết thế. Thời giờ rất là khẩn trương mà ông, ông đến với tư cách là một cố đạo. Từ chỗ cực kỳ lãnh đạm lúc ban đầu, ông đã dần dần hóa ra cực kỳ xúc động. Ông nhìn cặp mắt nhắm, ông nắm bàn tay già, nhăn nheo lạnh buốt, ông nghiêng đầu xuống mặt người hấp hối:

– Giờ phút này là giờ phút của Chúa. Ông có thấy rằng chúng ta gặp nhau mà không được việc gì thì rất đáng tiếc hay không?

Nhà Cách Mạng mở mắt. Mặt ông vừa nghiêm trang vừa có vẻ sầm tối.

Ông nói chậm rãi, chậm rãi vì phẩm cách tâm hồn hơn là vì kiệt sức

– Thưa ông Giám Mục, tôi đã trọn đời suy nghĩ, học hành, chiêm nghiệm. Khi tôi sáu mươi thì Tổ Quốc gọi tôi và ra lệnh cho tôi tham gia việc nước. Tôi đã tuân lệnh. Đời có tệ hại, tôi đánh đổ tệ hại; có cường quyền, tôi tiêu diệt cường quyền; có công lý và chính nghĩa, tôi tuyên dương và truyền giảng công lý và chính nghĩa. Lãnh thổ Tổ Quốc bị xâm lấn, tôi chiến đấu bảo vệ lãnh thổ; nước Pháp bị uy hiếp, tôi đem ngực tôi hiến cho nước Pháp. Trước kia tôi không giàu, bây giờ tôi nghèo. Tôi đã là một trong những người cầm đầu Nhà Nước; kho tàng công khố lúc ấy đầy ứ tiền, đến nỗi phải mang gỗ chống đỡ các bức tường chỉ chực vỡ tung vì trọng lượng vàng bạc; nhưng tôi vẫn ăn cơm ở phố Cây Khô mỗi bữa hăm hai xu. Tôi cứu người bị áp bức, tôi vỗ về người đau khổ. Tôi đã xé khăn phủ bàn thờ Chúa, đúng thế, nhưng là để băng bó những vết thương của Tổ Quốc. Tôi luôn ủng hộ nhân loại tiến lên ánh sáng và một đôi khi tôi đã chống những bước tiến chà đạp lên nhân tính. Cũng có khi tôi bênh vực cho chính kẻ thù của tôi, là các ông đấy. Ở Flandre, nơi vua chúa Mérovingiens dựng lầu nghỉ mát, có một tu viện; tôi đã bảo toàn cho tu viện ấy năm 1793. Tôi đem hết sức tôi để làm nhiệm vụ và làm việc phải. Sau đó tôi bị đuổi đi, bị truy, bị lùng, bị khủng bố, bị bôi nhọ, bị chế giễu, bị phỉ nhổ, bị nguyền rủa, bị khai trừ ra ngoài vòng pháp luật. Đã bao năm rồi tôi cảm thấy có khối người tưởng là có quyền khinh bỉ tôi, mặc dù đầu óc tôi bạc phơ. Quần chúng tối tăm nhìn mặt tôi như nhìn mặt một tội nhân dưới địa ngục. Tôi không thù hằn ai, tôi cam nhận cảnh cô độc Người ta đã tạo ra cho tôi vì thù ghét. Ngày nay tôi đã tám mươi sáu tuổi; tôi sắp chết. Thế thì ông đến đây để yêu cầu tôi cái gì?

Được ban phúc cho ông – ông Giám Mục nói.

Rồi ông quỳ xuống. Khi ông ngẩng đầu lên thì vẻ mặt Nhà Cách Mạng trông rất oai nghiêm. Ông đã qua đời. Về nhà, ông Giám Mục đăm chiêu suy nghĩ. Suốt đêm ông cầu nguyện, sáng hôm sau một đôi người tò mò đánh bạo hỏi chuyện ông về nhà Cách Mạng G., ông Giám Mục không nói, chỉ đưa tay chỉ lên trời. Từ độ ấy ông càng yêu thương săn sóc người dân cùng và những kẻ đau khổ. Ai nói xa nói gần đến “tên vô lại G.” cũng làm cho ông băn khoăn một cách kỳ dị. Không ai có thể nói được sự gặp gỡ giữa bộ óc ấy và bộ óc ông, giữa trái tim lớn ấy và trái tim ông có giúp phần nào cho ông đi đến cái đạo đức hoàn hảo ngày hôm nay không.

Việc đi thăm tất nhiên là một đầu đề cho các cuộc họp ngồi lê đôi mách ở địa phương. Họ bảo với nhau:

– Một con người như thế chết, có đáng cho một Giám Mục đến bên giường để an ủi không? Quân ấy tất nhiên còn biết cảm hóa theo Chúa là cái gì mà mong! Cả cái lũ Cách Mạng ấy là đồ tà đạo. Thế thì còn kể đến làm gì? Ông đến để xem cái gì ở đấy? Phải công nhận rằng ông Giám Mục quả thật là tò mò, ông muốn biết cái cách quỷ sứ bắt linh hồn như thế nào.

Chú thích trong bài

1814

Trận Paris là một trận chiến diễn ra vào năm 1814, nằm trong cuộc Chiến tranh với Liên minh thứ sáu của Napoléon Bonaparte. Quân đội Liên minh đã tiến đến ngoại ô Paris vào cuối tháng 3 năm 1814, sau chiến thắng lừng lẫy của họ trong trận Fère-Champenoise dưới sự chỉ huy của các Đế vương Nga, Áo, Phổ cùng với những võ tướng như Karl Philipp Fürst zu Schwarzenberg và Joseph Radetzky von Radetz. Khi tiến sát thành phố, Quân đội Đế quốc Nga đã phá vỡ hàng ngũ và chạy lên trước để có thể nhìn thấy Paris đầu tiên.

Các lực lượng Liên minh hạ trại ên ngoài thành phố vào ngày 29 và dự định tấn công vào sáng hôm sau. Sáng sớm ngày 30 tháng 3 năm 1814, trận chiến bắt đầu khi quân Nga tấn công và đẩy lui lực lượng Cận vệ Đế chế ở gần Romainville, trung tâm phòng tuyến quân Pháp. Vài giờ sau, quân Phổ do Blücher chỉ huy cũng tấn công phía Bắc thành phố và chiếm được vị trí của Pháp quanh Aubervilliers, nhưng sau đó không đẩy mạnh tấn công. Các binh sĩ Württemberg cũng đánh chiếm được các vị trí tại Saint-Maur ở phía tây nam. Người Nga đã quyết tâm khoét sâu vào Paris trước khi phải dừng chân trước các chiến lũy và đạn pháo của quân địch, sau đó lại còn phải lui binh do lực lượng Cận vệ Đế chế tổ chức phản công. Quân Pháp tiếp tục giam chân quân Nga ở khu trung tâm cho đến khi quân Phổ xuất hiện sau lưng họ. Quân Nga sau đó đã tấn công cao điểm Montmartre, nơi đặt Tổng hành dinh của Joseph Bonaparte (anh trai của Napoléon I) từ đầu trận đánh. Hai bên giành giật quyết liệt các điểm cao này, và Joseph bỏ chạy khỏi thành phố. Marmont liên lạc với phe Liên minh và đạt được một thỏa thuận bí mật với họ. Ngay sau đó, ông đã dẫn quân lính của mình đến một vị trí mà ở đó họ nhanh chóng bị quân Liên minh bao vây; sau đó Marmont đầu hàng theo thỏa thuận. Thống chế Mortier – dù vẫn phải lâm chiến với quân Phổ của Thống chế Blücher, cũng chấp nhận đầu hàng.

Đây là một trận đánh khốc liệt, kéo dài suốt cả ngày, mà cả hai đoàn quân đều chiến đấu rất mực can trường: quân Pháp quyết tâm bảo vệ kinh thành, còn những đội hình hàng dọch của quân Liên minh cũng hiên ngang xông vào chiến đấu.Chiến bại thê thảm này là lần đầu tiên kinh thành Paris thất thủ kể từ năm 1419. Vào ngày 31 tháng 3 năm 1814, các vua chúa phong kiến chống Pháp và các tướng lĩnh Liên minh như Tham mưu trưởng Radetzky. Hoàng đế Napoléon Bonaparte vốn đã làm bá chủ châu Âu về mặt quân sự từ năm 1797, thế mà thất bại của quân Pháp ở Paris đã chấm dứt thắng lợi chiến dịch nhanh gọn của Liên minh trên lãnh thổ Pháp. Sau chiến thắng quyết định của mình, các quốc gia phong kiến Áo, Phổ, Nga đã buộc Napoléon phải thoái vị. Napoléon chỉ trích Joseph do ông này đã bỏ chạy và Thống chế Mortier do ông này đã đầu hàng, gây ra chiến bại cho nước Pháp.

Louis XVII – 1973

số phận của ông hoàng Louis XVII, người sẽ kế vị ngai vàng của dòng họ Bourbon mà cái chết sau hơn 200 năm mới được xác định một cách rõ ràng Nói đến một cuộc cách mạng, người ta thường dùng chữ “dòng thác”, bởi vì nó thường cuốn trôi đi bao nhiêu số phận con người. Cuộc cách mạng tư sản Pháp đã phục hồi nền dân chủ, đồng thời cũng làm tiêu tan nhiều giá trị vật chất và tinh thần. Sau những nỗ lực cứu vãn tình thế, ngày 20-4-1792, vua Louis XVI tuyên chiến với nước Áo, nhưng một cuộc nổi dậy gần 4 tháng sau đó đã lật đổ ông hoàn toàn và đưa ông lên đoạn đầu đài vào ngày 21-1-1793. Chịu chung số phận với nhà vua là hoàng hậu Marie Antoinette, bị chém đầu ngày 16-10-1793 và cậu con trai Louis XVII, bị giam vào nhà ngục Temple rồi “mất tích” vĩnh viễn năm 1795

Đứa em thằng Cartouche:

Cartouche một tên tướng cướp lừng danh

Barabas và Herode

Barabas: một tên sát nhân, cũng bị giam với Giêsu; Herode: vua Giuyđê, đã kết án Giêsu

Marat

một trong những lãnh tụ trứ danh của cách mạng Pháp. Chí công vô tư, không nhân nhượng đối với kẻ thù của cách mạng. Marat rất được dân chúng tin yêu

Bossuet

giám mục ở triều đình Lui XIV, xuất thân đại quí tộc, đã có nhiều bài giảng và điếu

Montrevel, Fouquier Tinville, Lamoignon Bâville…..

Trong câu này và mấy câu sau, tên đầu chỉ một nhân vật thời cách mạng, tên sau chỉ một nhân vật thời quân chủ, đều có tên trong lịch sử.

Khổ hình Tantale

Theo thần thoại Hy lạp, thì Tăngtan vì xúc phạm thần linh, bị thần linh phạt mãi mãi đứng bên một dòng sông, dưới cái cây đầy quả. Đói khát quá, đưa tay hái quả thì cành cây nhích lên cao, cúi xuống uống nước thì dòng sông cạn.

Lan Và Điệp

-Cô Lan ạ, tôi đọc các sách, tôi thích cái cảnh này lắm. Tôi muốn cô cùng tôi, ước gì ta hóa ra hai người chăn chiên, yêu nhau, thỉnh thoảng gặp nhau, rủ nhau ra sườn đồi, dưới bóng cây mà trò chuyện, kể lể những câu tình tứ mộc mạc, mong mỏi những điều hy vọng thực thà…

-Cậu lãng mạn quá.

-Thú lắm cô ạ, còn gì thích cho bằng hai đứa ấy yêu nhau bằng cái tình tự nhiên như cảnh vật của tạo hóa, rồi một đôi khi, chúng đưa nhau lên ngọn đồi cao, đứng nhìn xuống dưới, thì tôi tưởng thần tiên cũng đến thế mà thôi. Quanh mình đã không có người đời, mà lại được thở riêng một bầu không khí, thật là chẳng bận chút trần ai!
Lan cười, trả lời:

-Cái tưởng tượng bao giờ cũng êm đềm thú vị hơn sự thực. Cậu cứ thế, không trách cậu thi hỏng cũng phải!

-Phải thế mới được. Sống một cách mơ hồ mới thấy cái sung sướng, mà việc đời ta chỉ biết qua loa. Nếu ngày sau tôi lấy cô, tôi sẽ ở một trái đồi riêng, làm nhà tận trên đỉnh cao chót; trên sườn đồi, ta sẽ trồng các thứ rau đủ để ăn quanh năm. Tôi muốn rằng ta không xuống đến chân đồi nữa, mà cũng đừng ai lên quấy rối mình làm gì. Chỉ có cô với tôi, ta sống bằng cái đời ái tình hơn cái đời vật chất.

Tản văn – Xe Ôm

Mưa rơi từng cơn heo hút trên con cầu Tân Hà bắc qua sông Lô. Thả từng giọt trầm xuống dòng nước và dòng đời. Phố thị im lìm say giấc ngủ sâu trong tiếng rên kẽ của nhân loại, nhân loại này còn buồn quá.

Cơn mưa ấy là cơn mưa đầu tiên của dòng thu đang trôi lại gần thành phố nhỏ. Reo rắc nỗi tương tư và màu nhớ lên từng mảng rêu phong cổ kính bám kín giữa thành phố. Đèn đường hiu hắt nhìn từng dòng mưa rơi nghiêng. Dưới gầm cầu, 2 nhân mạng đang lảng tránh từng trận mưa trút ngang đời người. Nhưng mà cơn mưa đâu có rứt, cơn mưa trong lòng này mới là con mưa lớn nhất. Cứ rả rích rả rích mãi không thôi, mãi không ngớt, cứ đè từng hạt xuống trái tim và trực chờ 1 ngày trút xuống một trận thật lớn để thoải mái mà rằng xéo, giày vò tâm trí này.

-Em sắp phải đi Úc. Gia đình đã làm thủ tục.

Tiếc mưa, tiếng gió kéo kèn kẹt khung cửa lòng. Khói thuốc bay ngang chân mày cô gái, phả vào từng tiếng nghẹn ngào cô vừa nói ra.


Cũng là một đêm trời mưa gió tháng 6. Anh chạy mưa về nhà. Giữa trời gầm thét những cơn dận dữ. Bỗng chân phanh ấn mạnh, tay phanh bóp hết sức, bánh xe kéo một vệt dài trên con đường tanh tách từng hạt bóng nước. Một cô gái ngất giữa trời mưa, máu từ 2 chân quên với nước mưa hồng nhạt.

-Này cô.

Anh lay mạnh người cô gái lạ, và kêu từng tiếng lớn. Dòng mưa chảy dài trên khóe mũi, trời mưa hừng hực nuốt lấy cô bé nhỏ. Sau một hồi do dự, anh bế xốc cô gái lên xe, đặt cô ngồi thẳng, anh cời chiếc áo của mình ra rồi buộc ngang người cô gái cột chặt vào anh. Quay đầu xe về bệnh viện Bạch Mai.

-Địt mẹ, thằng khốn đó lại đánh con bé, nó sắp sinh rồi còn để con bé như vậy.

Và cái thằng khốn cả bệnh viện đang nói đến đó họ đang nghĩ là anh này. Từ lúc chiếc băng ca trở cô vào phòng cấp cứu đến bây giờ, đã không ngừng nghỉ những tiếng chế nhạo, những cái nhìn khinh ghét cho người đàn ông vừa đưa một người đàn bà đang mang thai đến đây, thân thể bầm dập những vết bạo hành. gần 12 tiếng ngủ gục trên ghế chờ bệnh viện. Gần 12 tiếng suy nghĩ mãi không thôi ” địt mẹ, đang yên đang lành phải đi lo cho một con đĩ “, gần 12 tiếng kim đồng hồ vang lên nhưng lời thê thảm. Bác sĩ kéo cửa phòng cấp cứu, hỏi ai là người nhà bệnh nhân.

Tôi, tôi là chồng cô bé

Anh ấp úng vang lên vài tiếng khi bác sĩ hỏi. Khung trời sôi động hẳn lên rồi lặng dần đi sau câu nói đó.

Đứa bé mất rồi, cô gái thì may mắn còn sống, mất máu quá nhiều, cô ấy cần được dưỡng sức dài. Anh đi theo tôi để nộp viện phí.
Và không quên tiếng cuối cùng

– Lần sau đừng có đánh con bé, tội nghiệp.

Đi theo bác sĩ đến quầy thanh toán. Anh dốc hết số tiền ít ỏi gần 1 tháng chạy xe ôm của mình, chưa đầy 1/2 tiền cọc viện phí. Không còn ai để cầu cạnh, không còn ai để vay. Nhìn dáng bộ ngập ngùng, nữ nhân viên y tế đứng đó hỏi.

-Thế có cần về để vay mượn thêm không.

Làm gì còn ai mà vay mượn. Anh vốn là một đứa trẻ mồ côi từ nhỏ. Lớn lên trong cô nhi viện, cái nơi mà anh không nhìn được một nét tình cảm nào hiện trên mặt của từng người. Bữa đói, bữa no mãi mới đủ tích góp mua cho được cái xe. Giờ đây vì cái đứa nào đó anh gặp giữa đường mà tiền viện phí bằng 3 lần tiền mua chiếc xe mới cóng cùng nhãn hiệu của anh. Làm gì còn ai mà vay mượn. Ngập ngừng rồi đáp.

-Thế chị cho em xin ít phút để em về vay mượn tạm

-Nhưng nhớ về sau đừng đánh con bé

Vẫn lời nói mà chua xót lòng đó. Anh cũng chửi đứa nào đánh con bé từ nãy đến giờ. Từ hơn 10 tiếng trước khi anh nhìn rõ cô mà không qua màn mưa trắng xóa.

Mấy gã xe ôm hay đứng cùng anh thì cũng hỏi thăm, nhưng mà hôm nay đến, đâu có ai cho anh vay lấy 1 đồng. Cũng đúng thôi, cái thằng ngủ trên tầng 12 của chung cư hay nóc kí túc xá như nó thì đâu có gì mà đảm bảo để cho nó vay. Chẳng vay mượn được đồng nào. Đã thế gã còn chẳng kiếm thêm được quốc nào cho cái bụng gã mấy ngày tiếp theo. Mỗi lần đi qua bàn thanh toán là gã lại cúi rụp người mà đi. Hy vọng không phải rơi vào ánh mắt của người thu tiền.

-Hồi đó em có tất cả, ngoại trừ chính em. Bây giờ em mất tất cả, ngoại trừ chính em

Cô nói sau một hàng nước mắt dài.

Ôi cái số phận con người, trò chơi tạo hóa luôn để chúng ta lựa chọn. Lựa chọn tới, lựa chọn lui rồi, một ngày ta lựa chọn lầm. Thế mà cũng đâu có dứt, cuộc sống vẫn bắt ta phải lựa chọn, giờ đây, cô lại phải lựa chọn, chọn đi xa cái mảnh đất này hay ở lại đây với người đã từng giữ lại cho cô chút niềm tin vào cuộc sống. Chọn lấy một cuộc sống vô ưu hay một cuộc sống bôn ba bên người. Chọn gia đình đầm ấm hay chọn tình cảm tràn đầy….????

Khói thuốc lại băng ngang chân mày cô vào rơi vào nỗi lòng từng người. Điếu thuốc cuối, cô chia với anh, nỗi lòng cuối, cô chia với anh, ngày cuối, cô chia với anh, giọt nước mắt cuối, cô chia với anh. Bàn tay cuối, cô chia với anh. Cơn mưa cuối, xin đi cùng anh